Tổng số lượt xem trang

Thứ Tư, 31 tháng 12, 2014

Vì sao Dương Quý Phi mãi mãi là Quý phi?

Xinh đẹp, có tài đàn hát và được hoàng đế nhà Đường sủng ái bậc nhất nhưng Dương Quý Phi cả đời không được phong làm hoàng hậu.

Dương Quý Phi (719-756) tên thật là Dương Ngọc Hoàn, là phi tần được Đường Huyền Tông - Lý Long Cơ nhất mực sủng ái. Nàng được xếp vào một trong Tứ đại mỹ nhân của lịch sử Trung Quốc, có sắc đẹp khiến hoa thu mình lại vì hổ thẹn. Hậu cung hàng nghìn phi tần mỹ nữ nhưng tất cả sự yêu chiều Đường Huyền Tông đều dành cho Dương Quý Phi. Nhưng dù rất sủng ái Dương Quý Phi thì Đương Huyền Tông cũng không lập bà làm hoàng hậu.

Sủng ái bậc nhất

Năm 736, Dương Quý Phi được Đường Huyền Tông lập làm phi tử và sau đó nhanh chóng nhận được sự sủng ái của hoàng thượng. Phải nói thêm rằng Dương Quý Phi vốn là thê tử của Thọ Vương Lý Mạo, con trai của Đường Huyền Tông và Võ Huệ Phi. Võ Huệ Phi là phi tử được Lý Long Cơ sủng ái nhất lúc đó nên sau khi bà mất Lý Long Cơ rất buồn phiền, ngày nhớ đêm thương, lập đài Tập Linh để cầu siêu cúng vái cho vong hồn Huệ Phi được sớm siêu thoát.


Dương Ngọc Hoàn, dù rất được sủng ái nhưng không thể trở thành hoàng hậu: Ảnh minh họa: ss998. 

Để vua được vui lòng Cao Lực Sĩ đã tâu với vua về Dương Ngọc Hoàn. Vì say mê nhan sắc của Dương Ngọc Hoàn, vua Đường Huyền Tông đã sai Cao Lực Sĩ đưa Dương Ngọc Hoàn vào Tập Linh đài để trông coi đèn nhang sớm hôm cầu nguyện cho Võ Huệ Phi. Do đó, Ngọc Hoàn phải vào cung Hoa Thanh đến đài Tập Linh làm sãi, lấy hiệu là Thái Chân.

Cao Lực Sĩ lại chọn gả con gái của Vị Chiêu Huấn để thay Ngọc Hoàn làm vợ Thọ vương. Xem như xuất gia là thay đổi đời người, không còn là vợ của vương tử Lý Mạo nữa. Sau đó, Lý Long Cơ cho Dương Hoàn Ngọc hoàn tục và lập làm Phi tử. Để có được Dương Ngọc Hoàn, vua Đường Huyền Tông đã không ngại dùng "tiểu xảo" này, khiến tình cha con sứt mẻ.

Năm 745, Huyền Tông lập nàng làm quý phi. Cha Ngọc Hoàn là Dương Huyền Diễn được phong làm Thượng thư bộ Binh, ba người chị của Ngọc Hoàn cũng được phong làm phu nhân là Hàn quốc phu nhân, Quốc quốc phu nhân và Tần quốc phu nhân.

Hàng tháng, Hoàng đế cho xuất của kho 30 vạn quan tiền cho mỗi vị phu nhân, 10 vạn quan tiền mua sắm tư trang phấn sáp. Anh trai quý phi là Dương Xuyên được phong làm tể tướng và được đổi tên là Dương Quốc Trung. Đường Huyền Tông cũng gả hai công chúa của mình cho người nhà họ Dương. Nhờ ân sủng của Dương Quý Phi mà vị thế của Dương gia không ngừng tăng lên.
Người hầu hạ trong cung của Quý phi có đến hơn 100 người. Các đại thần bên ngoài muốn được Huyền Tông trọng dụng đều chủ động dâng lễ vật quý cho quý phi. Nhiều người được thăng tiến bằng con đường này. Trong hậu cung của Huyền Tông, từ khi Dương Quý Phi xuất hiện thì các phi tần khác đều rất khó được ân hạnh nữa.

Cho dù hai lần Đường Huyền Tông trục xuất Dương Quý Phi ra khỏi cung vì làm ông phật ý nhưng vị vua si tình này cũng không thể vượt qua ải mỹ nhân. Dương Hoàn Ngọc xuất cung chưa bao lâu ông đã hối hận, ngày đêm thương nhớ ái phi. Vậy là lại rước nàng hồi cung, ban thưởng ân sủng như lúc đầu.

Mãi mãi là quý phi


Tuy rất sủng ái Dương Quý Phi nhưng Đường Huyền Tông cũng hiểu rằng nếu lập nàng là hoàng hậu thì sẽ có nhiều bất trắc. Bởi thực tế Dương Quý phi trước kia là thê tử của Thọ vương Lý Mạo. Nếu nay lập Dương Quý Phi làm hoàng hậu thì sẽ khơi lại lòng căm hận của Thọ vương.

Thêm vào đó việc "cướp vợ" của con trai dù sao cũng là vi phạm đạo đức, dù có là đế vương cũng không tránh khỏi bị dèm pha. Và Dương Quý Phi cũng không tránh khỏi vết nhơ này. Đã không được lòng dân chúng và quần thần sao có thể trở thành "Mẫu nghi thiên hạ", sao có thể đứng đầu hậu cung.

Lý Long Cơ là người rất thích nghệ thuật, ông không chỉ yêu vẻ đẹp của Dương Ngọc Hoàn mà còn rất thích tài nghệ đàn hát của nàng. Ông cũng tinh thông rất nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau. Dương Ngọc Hoàn từ nhỏ đã được học đàn hát lại cũng rất tinh thông âm luật, chơi đàn tỳ bà rất giỏi. Lý Long Cơ coi Dương Ngọc Hoàn như tri kỷ về nghệ thuật, chính vì thế thực lòng Lý Long Cơ cũng chưa bao giờ nghĩ đến việc lập nàng là hoàng hậu.

Hình tượng Dương Quý Phi trong các vở kinh kịch. Nàng hiện lên là người đẹp tài sắc vẹn toàn, được Đường Huyền Tông sủng ái vì sắc đẹp và tài đàn hát. Ảnh: Duitang.

Còn có một nguyên nhân khác khiến Lý Long Cơ thấy Dương Quý Phi không thích hợp làm hoàng hậu là vì vị thế của Dương gia. Vì quá sủng ái Dương Quý Phi, Dương phủ được hưởng nhiều bổng lộc, anh chị em thân thích đều được trọng dụng trong triều đình, thế lực không ngừng lớn mạnh. Nếu phong Dương Quý Phi làm hoàng hậu sẽ bị triều thần phản đối, nguy cơ biến chính có thể xảy ra.


Đời nhà Đường, Đường Huyền Tông là một hoàng đế trị vì lâu hơn cả. Các phi tần được hoàng đế sủng ái sinh cả thảy 59 người con nhưng Huyền Tông lại không có người con nào với Dương Quý Phi. Không có ghi chép lịch sử nào về nguyên nhân tại sao Dương Quý Phi không có con, nhưng không có con trai là trở ngại lớn nhất để bà trở thành hoàng hậu.

Vì việc lập hoàng hậu là việc hết sức trọng đại của đất nước, phải có sự tham gia của quần thần, chiếu thị toàn dân. Hoàng hậu phải là người đạo đức, công dung tốt, có thể làm mẫu nghi thiên hạ, con trai của hoàng hậu sẽ được chọn làm thái tử, kế vị ngai vàng.

Thái tử được lập trước đó nay đã lớn mà Dương Quý Phi vẫn không thể sinh được một người con nào nên không có lý do gì để phong làm hoàng hậu. Nếu bất chấp phong hậu cho bà thì không chỉ có thái tử, Thọ vương mà thậm chí là các đại thần cũng phản đối, triều đình bất ổn. Đường Huyên Tông chắc chắc sẽ không mạo hiểm như vậy.

Dương Quý Phi mặc dù không được làm hoàng hậu nhưng ân sủng của Hoàng thượng dành cho bà chính là tiêu chuẩn ân sủng của hậu. Bà cũng là người rất lãng mạn, không tham quyền thế. Vì vậy, Dương Quý Phi chưa một lần yêu cầu hay nhắc đến việc lập bà làm hoàng hậu. Là một phi tử được sủng ái nhất mực như vậy, hà tất phải cần danh hiệu hoàng hậu kia. Dương Quý Phi là một trong số ít phi tần có được suy nghĩ như vậy. Đó cũng là một trong những lý do khiến bà được Đường Huyền Tông yêu quý hết lòng.

Chủ Nhật, 28 tháng 12, 2014

Hội kín bí ẩn nhất thế giới: Sự thật hé mở

Những hiệp sĩ dòng đền, Hội tam điểm, Sọ và Xương người… là những hội kín bí ẩn nhất trong lịch sử nhân loại. 

The Knights Templar – Những hiệp sĩ dòng đền


Các Hiệp sĩ dòng Đền (The Knights Templar) là một trong những hội bí mậttừ thời Trung cổ do các Hiệp sĩ Thánh chiến thành lập nhằm bảo vệ người hành hương hướng về miền Đất thánh sau cuộc Thập tự chinh. Theo một số nguồn trong sử sách ghi lại, vào khoảng năm 1119 tại Jerusalem, một hiệp sĩ vùng Champagne tên Hughues de Payns cùng vài hiệp sĩ Pháp khác đã cùng Godefroi de Bouillon đứng ra thành lập dòng Đền.


Đền Manor, được xây dựng bởi các hiệp sĩ dòng Đền năm 1160. Ngày nay, nó thuộc khu diện tích đất công nghiệp gần tuyến đường sắt. Nguồn : Wikimedia Commons. 
 
Lúc đầu họ lấy tên là Đoàn hiệp sĩ nghèo của Đức Ki-tô, áp dụng giáo điều của thánh Augustine đồng thời gia nhập lực lượng cảnh binh để giúp đỡ và bảo vệ những người hành hương đến Jerusalem. Vua Jerusalem làBaudouin II cho họ cư ngụ ngay sát đền Salomon cũ. Trong năm 1125 dòng Đền trải qua lần hưng thịnh đầu tiên khi Bá tước Hugo của Champagne gia nhập dòng tu, một người bạn của tu viện trưởng Bernhard của Clairvaux. Bernhard là một trong những tu sĩ quan trọng nhất trong thời của ông. Sau những nghi ngại ban đầu, từ năm 1129 ông đã ủng hộ dòng Đền. Sau cuộc Thập tự chinh lần thứ hai, họ được giáo hội Công giáo chính thức thừa nhận. Chỉ trong vài thập kỷ ngắn ngủi, hội này đã trở thành một trong những tổ chức lớn mạnh nhất châu Âu, kiểm soát hệ thống tài chính, ngân hàng và quân đội với lực lượng ủng hộ gia tăng, lãnh thổ không ngừng mở rộng.


Mô tả các hiệp sĩ dòng đền năm 1870. Nguồn: Wikimedia Commons.

Hiệp sĩ dòng đền có những quy định nghiệm ngặt trong hành động, trong việc truyền giáo và trong các hoạt động quản lý tài chính, lãnh thổ, đất đai của mình. Khi tham gia chiến trường họ được rèn bản lĩnh không bao giờ thoái lui, chỉ khi thấy số lượng đối phương áp đảo người cầm quân mới hạ lệnh rút lui. Họ cũng cam kết sẽ bảo vệ đến cùng những người hành hương trên hành trình của mình.

Câu chuyện của các hiệp sĩ phần nhiều liên quan đến huyền thoại Công giáo, trong đó có việc kho báu được tìm thấy chôn dưới ngôi đền Solomon ở thành Jerusalem. Người ta suy đoán rằng họ đã mua lại Hòm giao ước,Chén thánh và máu của chúa Giêsu.

Tuy vậy không có bằng chứng rõ ràng cho thấy họ đã thực hiện các giao dịch này thành công song chắc chắc là tổ chức này đã tích lũy được số tài sản kếch xù và hoạt động của họ có những tầm ảnh hưởng nhất định. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự tan rã của họ. Trước kia người ta đầu tiên là người Kitô giáo rồi mới là thần dân, thí dụ như là của vua Pháp, thì tương quan này dần dần bị đảo ngược lại. Các vị vua nhìn những dòng tu được tổ chức dưới quyền của Giáo hoàng với cặp mắt ngày càng nghi ngại, đặc biệt là vì các dòng tu quân đội chính là đạo quân lớn nhất và có nhiều kinh nghiệm chiến trường nhất.

Mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm khi vào khoảng những năm 1300, nhà vua mắc nợ tổ chức này một số tiền lớn, đã cho bắt giữ và tra tấn hàng trăm thành viên của hội với tội danh như tin theo dị giáo và thờ cúng ma quỷ. Nhiều người thuộc tổ chức này bị tử hình. Một số người còn lại thì sống yên ổn nhưng phân tán khắp nơi. Hiệp sĩ dòng Đền bị đức Giáo hoàng giải tán vài năm sau, để lại nhiều huyền thoại kể từ đó. Ngày nay, nhiều người vẫn cho rằng tổ chức này vẫn tồn tại ngầm dưới nhiều hình thức, song không có một căn cứ chắc chắn vào khẳng định điều này, mọi lời đồn đoán vì thế càng thêm màu huyền bí.

2. Freemasons - Hội Tam điểm
Sự tồn tại của Hội Tam điểm không bí mật, nhưng cách thức hoạt động của tổ chức này thì luôn nằm trong vòng bí mật. Các thành viên của Hội này có rất nhiều nhân vật nổi tiếng, điển hình như người khai sinh ra nước Mỹ tổng thống George Washington, Benjamin Franklin, Paul Revere.


Biểu tượng của Hội Tam điểm. Nguồn: Internet. 

Các thành viên của Hội Tam Điểm tự nhận mình là một tổ chức huynh đệ đoàn kết trên toàn thế giới với trọng tâm học hỏi lẫn nhau, tự hoàn thiện, giác ngộ, giữ gìn nhân phẩm và quyền tự do cá nhân, tự do tôn giáo, dân chủ, cải thiện xã hội. Các thành viên hội thường tham gia vào hoạt động cộng đồng ở địa phương nơi họ có chi hội, và thường xuyên có mặt trong nhiều hoạt động từ thiện xã hội. Hội này đã giúp lập nên các trường công lập đầu tiên ở châu Âu và Mỹ.

Tuy vậy đây cũng chỉ là một trong những phần nhỏ trong hoạt động của Hội Tam điểm, còn rất nhiều các hoạt động khác, cũng như tôn chỉ, mục đích, nguyên tắc của hội luôn nằm trong vòng bí mật.

3. Skull and Bones – Sọ và Xương người

Skull and Bones được thành lập vào năm 1832 dưới hình thức sinh hoạt đầu tiên là một câu lạc bộ họp mỗi tuần hai lần. Hình thức này vẫn được duy trì đều đặn đến nay.

Cũng như hội Tam điểm, hội kín này thật sự tồn tại và hoạt động thường xuyên, song nghi thức và các hoạt động của hội này vẫn còn là ẩn số với những người bên ngoài.

Tổ chức của hội kín bí ẩn này có quy mô nhỏ hơn rất nhiều các hội khác, hàng năm họ hạn chế việc kết nạp thêm thành viên. Chỉ khoảng 15 người trong số hàng trăm nghìn người trên thế giới xin gia nhập được kết nạp vào hội mỗi năm. Kể từ khi hình thành đến nay hội chỉ khoảng 800 người. Theo một số lời đồn đoán hội này chỉ kết nạp các thành viên đại học xuất sắc, có xuất thân danh giá, quyền thế.

Ngoại trừ các thành viên của hội được bước vào, thì đằng sau cánh cửa hội trường luôn là nơi khiến bất kỳ ai cũng tò mò, song hầu như không bao giờ có lời giải đáp.

Thứ Năm, 25 tháng 12, 2014

Phát minh cổ đại khiến người hiện đại bó tay

Những phát minh cổ đại này vượt xa tầm hiểu biết của người hiện đại, đặt ra một thách thức lớn về việc tìm hiểu chúng.

Ngọn lửa Hy Lạp: Vũ khí hóa học bí ẩn

Hình ảnh từ một bản chép tay được rọi sáng – Madrid Skylitzes – cho thấy “Ngọn lửa Hy Lạp” được dùng để chống lại hạm đội phiến quân Thomas the Slav. Phần ghi chú phía trên con tàu bên tay trái có nội dung: “Hạm đội của người La Mã đang thiêu đốt hạm đội của kẻ thù” (Nguồn: Wikimedia Commons).




Vào khoảng từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 12, Đế quốc Hy Lạp (Byzantines) dùng một chất bí ẩn để bắn vào địch thủ trong hải chiến. Loại chất lỏng này được bắn qua ống hoặc vòi, cháy trong nước và chỉ có thể bị dập tắt bởi dấm, cát và nước tiểu.

Chúng ta vẫn chưa biết được loại vũ khí hóa học tên là Greek Fire (Ngọn lửa Hy Lạp) này được làm từ chất liệu gì. Đế quốc Hy Lạp khư khư ôm giữ bí mật này, chỉ để một vài người nhất định biết được và cuối cùng tri thức ấy đã hoàn toàn thất truyền.


Thủy tinh uốn dẻo: Loại vật liệu siêu quý giá

Ba ghi chép về một loại vật liệu được biết đến như thủy tinh uốn dẻo, kính mềm dẻo, không đủ rõ ràng để xác định chất liệu này có tồn tại hay không. Câu chuyện về loại vật chất này lần đầu tiên được nhắc đến bởi Petronius (mất năm 63 SCN).

Trong ghi chép của Petronius, một người thợ thủy tinh đã dâng cho Hoàng đế Tiberius (Hoàng đế thứ 2 của La Mã, trị vì từ năm 14 – 37 SCN) xem một lọ thủy tinh. Khi ông yêu cầu nhà vua trao nó lại cho ông, đúng lúc đó, người làm thủy tinh đánh rơi nó xuống sàn nhà.



Một bức tượng Hoàng đế Tiberius Marble, năm 37 SCN bằng đá cẩm thạch.

Nó không bị vỡ mà chỉ bị lõm và người làm thủy tinh đã nhanh chóng gò nó trở lại hình dạng ban đầu. Lo rằng công nghệ quý giá này có thể bị truyền rộng ra ngoài, Tiberius đã ra lệnh chém đầu người chế tạo ra nó. Vì vậy, bí mật về thủy tinh uốn dẻo cũng biến mất theo ông ta.

Pliny The Elder (một tác gia người La Mã – mất năm 79 SCN) cũng kể lại câu chuyện này. Ông nói, mặc dù câu chuyện được kể lại thường xuyên, nó có thể không hoàn toàn là sự thật.

Một phiên bản khác được kể lại vài trăm năm sau đó bởi Dio Cassius. Ông đã thay người làm thủy tinh thành một kiểu ảo thuật gia. Khi lọ thủy tinh bị rơi trên sàn nhà, nó đã vỡ vụn và người làm thủy tinh đã sửa lại như mới bằng đôi tay trần của mình.

Năm 2012, Công ty chế tạo kính Corning đã giới thiệu loại “Kính liễu” mềm dẻo. Chịu nhiệt và đủ dẻo để có thể cuộn lại, nó được chứng minh là đặc biệt hữu dụng cho việc chế tạo những tấm kính năng lượng mặt trời.

Nếu như người làm thủy tinh La Mã bất hạnh kia đã thật sự sáng chế ra loại thủy tinh uốn dẻo, thì dường như ông đã đi trước thời đại cả hàng ngàn năm lịch sử.

Thuốc giải độc vạn năng

Người ta cho rằng loại thuốc được gọi nôm na là “thuốc giải độc vạn năng” được sáng chế bởi Vua Mithridates VI của Đế quốc Pontus (trị vì từ năm 120 đến năm 63 TCN) và được hoàn thiện bởi thầy thuốc riêng của Hoàng đế Nero.



Một bức tượng tạc hình Vua Mithridates VI của Đế quốc Pontus.


Theo giải thích của Adrienne Mayor – nhà nghiên cứu truyền thống dân gian và lịch sử khoa học tại Đại học Stanford – trong một bài báo năm 2008, tiêu đề “Ngọn lửa Hy Lạp, Mũi tên độc và Bom bọ cạp: Chiến tranh sinh hóa trong Thế giới cổ đại”, công thức nguyên bản đã bị thất lạc, nhưng những sử gia cổ đại đã ghi chép rằng thành phần của nó gồm thuốc phiện, rắn vipe băm nhỏ và tổng hợp giữa những liều lượng nhỏ chất độc và thuốc giải chúng.

Loại chất này được gọi là Mithridatium, đặt tên theo Vua Mithridates VI.

Mayor lưu ý rằng Serguei Popov, một cựu nghiên cứu viên hàng đầu về vũ khí sinh học trong chương trình vũ khí sinh học bí mật “Biopreparat” đồ sộ của Liên Xô, người đã đào thoát đến Mỹ hồi năm 1992, cũng đã nỗ lực đểtạo nên một loại Mithridatium hiện đại.

Vũ khí tia nhiệt

Một bức tranh miêu tả cách Archimedes đốt cháy những con tàu La Mã trước Syracuse bằng những tấm gương cầu parabol. (Nguồn: Wikimedia Commons)

Nhà toán học Hy Lạp Archimedes (mất năm 212 TCN) đã phát triển một loại vũ khí tia nhiệt, làm thách đố những công nghệ trong chương trình “Mythbusters” năm 2004 của Kênh Truyền hình Discovery khi muốn tái tạo lại. Mayor đã mô tả loại vũ khí trên như “hàng dãy hàng dãy khiên đồng sáng bóng phản chiếu tia sáng mặt trời vào những chiến hạm của kẻ thù”.



Một bức tranh miêu tả cách Archimedes đốt cháy những con tàu La Mã trước Syracuse bằng những tấm gương cầu parabol.

Mặc dù chương trình Mythbusters đã thất bại trong việc chế tạo lại vũ khí cổ đại này và tuyên bố đó là câu chuyện thần thoại, các sinh viên MIT (Massachusetts Institute of Technology) đã chế tạo thành công vào năm 2005. Họ đã đốt cháy một chiếc tàu ở cảng San Francisco bằng cách sử dụng loại vũ khí 2.200 năm tuổi này.

Một vũ khí tia nhiệt được công bố vào năm 2001 bởi Cơ quan các dự án phòng thủ tiên tiến (trực thuộc Lầu Năm Góc, Hoa Kỳ) – DARPA – sử dụng những sóng cực ngắn để xuyên qua “bề mặt da của nạn nhân, đốt nóng nó đến 130 0F (54.4 0C), tạo nên cảm giác như đang bị cháy trong lửa”, theo giải thích của Mayor.

Bê tông La Mã

Kiến trúc La Mã vĩ đại trải qua hàng ngàn năm lịch sử là chứng cứ rõ ràng rằng các tính năng của bê tông La Mã ưu việt hơn loại bê tông hiện đại với các dấu hiệu xuống cấp sau 50 năm.

Trong những năm gần đây, các nhà khoa học đã và đang nghiên cứu để bóc tách bí mật về độ bền của tường thành cổ đại này. Thành phần bí mật chính là tro núi lửa.



Bê tông gần 2.000 năm tuổi tại Rome.



Một bài báo phát hành năm 2013 bởi Trung tâm tin tức Đại học California-Berkeley cho biết, những nhà nghiên cứu của trường đại học này đã lần đầu tiên mô tả cách mà hợp chất bền vững lạ thường Calcium (canxi) – Aluminum (nhôm) – Silicate (hợp chất gồm có silicon mang anion) – Hydrate (một chất chứa nước) (C-A-S-H) kết dính các loại vật liệu.

Quá trình làm ra hợp chất này ít tạo nên khí thải cac-bon-nic (CO2) hơn quá trình làm ra bê tông hiện đại. Một vài nhược điểm về tính năng sử dụng như là tốn nhiều thời gian hơn để khô cứng lại; và dù tồn tại lâu hơn, nó yếu hơn so với bê tông hiện đại.

Thép Damascus

Thời Trung cổ, những thanh kiếm rèn từ thép Damascus được làm ra tại vùng Trung Đông với nguyên liệu thô là thép Wootz, có xuất xứ từ châu Á. Nó bền chắc một cách khó hiểu. Không phải là đến khi có cuộc cách mạng công nghiệp thì kim loại cực chắc mới có thể được luyện lại.



Một thanh kiếm được làm từ thép Damascus.


Bí mật về công nghệ chế tạo thép Damascus của Trung Đông chỉ vừa mới được tái hiện lại trong các phòng thí nghiệm hiện đại bằng kính hiển vi điện tử. Nó lần đầu tiên được sử dụng vào khoảng năm 300 TCN. Đến khoảng giữa thế kỷ 18, công nghệ chế tạo dường như bị thất truyền một cách không thể lý giải.

Công nghệ Nano (công nghệ chế tạo các thiết bị cực nhỏ) đã được vận dụng vào việc chế tạo ra thép Damascus, nếu xét đến việc những nguyên liệu được thêm vào trong quá trình chế tạo thép là để tạo ra những phản ứng hóa học ở tầng lượng tử, theo chuyên gia khảo cổ K. Kris Hirst trong một bài báo viết cho About Education. Nó là một loại thuật giả kim

Thứ Hai, 22 tháng 12, 2014

Lý giải khả năng kỳ lạ của tổ sư môn Aikido

Ueshiba Morihei là tổ sư môn võ Aikido và lừng danh vì trong suốt cuộc đời mình, không ai có khả năng đẩy hoặc đánh ngã được ông.

Môn võ Aikido hay ở Việt Nam còn được gọi là Hiệp khí đạo hoặc Hợp khí đạo là một môn võ mới chỉ ra đời ở Nhật Bản từ những năm 1940. Theo Wikipedia, môn Aikido bắt đầu được truyền dạy từ năm 1942.

Người sáng lập ra nó là ông Ueshiba Morihei sinh năm 1883 và mất năm 1969. Ông xuất thân từ một gia đình dòng dõi samurai trong họ tộc Kii. Ông nội và bố Morihei đều rất giỏi võ nghệ. Đặc biệt bố Morihei là một đại lực sĩ có thể dùng 2 ngón út xách hai bao gạo mỗi bao nặng 100 kg.

Thuở nhỏ Morihei thể chất mảnh khảnh và hay ốm đau nên thích đọc sách hơn. Nhưng khi lớn hơn một chút, ông quyết tâm trở nên cường tráng bằng cách luyện thể lực.

Được người cha kèm cặp, ông bắt đầu luyện môn võ Aioi-ryu cho tới năm 15 tuổi. Nhờ khổ luyện, ông đã đạt được một sức mạnh ít ai bì kịp.


Ueshiba Morihei - tổ sư sáng lập môn phái Aikido Nhật Bản. Ảnh: aikidoml.cz.

Sau khi học võ gia truyền, Morihei đã có những cơ duyên gặp gỡ nhiều võ sư danh tiếng thời đó. Trong gần 20 năm sau đó, ông đã học qua Jujitsu, Kenjitsu, Aiki Jujitsu hay còn gọi là Aikibudo…
Đến năm 1920, ở tất cả các môn võ được học, Morihei đều đạt đẳng cấp Menkyo Kaiden. Ngoài ra Morihei còn nghiên cứu các triết lý tôn giáo, đặc biệt là Thiền tông, dưới sự chỉ dạy của thiền sư Shinton.
Cho đến năm 1928, Morihei trở thành một võ sư được thừa nhận là một trong những người có võ công cao cường nhất Nhật Bản. Mặc dù chỉ cao 1,55m và cân nặng chưa tới 50 kg nhưng ông có thể quật ngã cùng lúc nhiều võ sĩ cơ bắp cuồn cuộn.

Đã có lần ông tỉ thí với võ sư kiếm đạo lừng danh đồng thời là sĩ quan trong hoàng gia Nhật Bản trước mặt Thiên hoàng. Mặc dù võ sư kia vung kiếm như gió táp mưa sa nhưng Morihei vẫn tránh được hết và sau cùng đã đánh bại đối thủ.

Ông cũng nổi tiếng với tài có thể tránh được cả đạn bắn. Wikipedia cho biết thời kỳ phục vụ tại Mãn Châu trong cuộc chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905), Morihei đã luyện được khả năng linh giác, có thể cảm nhận trước được đòn tấn công của đối phương. Trong lần tháp tùng Onisaburo Deguchi – người thày dạy Morihei về giáo lý Omoto-kyo sang Trung Quốc, Morihei đã mấy lần trổ tài tránh thoát những viên đạn bắn vào ông. Theo lời ông kể, ông cảm nhận được làn đạn chỉ tích tắc trước khi người ta bóp cò.

Morihei (bên phải ảnh) và một võ sinh đang luyện tập. Ảnh: blog.aikidojournal.com.


Việc Ueshiba Morihei cả đời không bị ai đánh ngã là điều có thật. Chính một võ sư Aikido kiêm diễn viên điện ảnh Mỹ tên là Stevel Seagal, người từng là môn đệ của Ueshiba kể rằng ông từng nhiều lần được chứng kiến cảnh thầy mình đặt một thanh kiếm hoặc một cái gậy vào cổ mình rồi hô 4 võ sĩ đai đen mạnh nhất đẩy. Họ không đẩy được ông nhúc nhích một ly nào. Nhưng ông lại đẩy họ ngã xuống thật dễ dàng.

Lý giải về điều này, trong cuốn sách Tự luyện nội công Thiếu Lâm Tự, võ sư Hàng Thanh của Việt Nam viết: “Ông Ueshiba, tổ sư môn Hiệp Khí Đạo Nhật Bản suốt đời không có đối thủ nào quật ngã được là nhờ luyện thành Hỗn Nguyên khí công. Với cách nói tràn đầy tính đạo, ông bảo: vì tôi là tiểu vũ trụ hòa đồng cùng đại vũ trụ, nên ai động đến tôi tức động đến đại vũ trụ, mà vũ trụ thì không ai lay chuyển nổi. Thật ra thì ông đã luyện thành Hỗn Nguyên khí công chớ chẳng có chi lạ”.

Stevel Seagal cũng nói rằng: “Võ thuật của Ueshiba chính là quyền năng từ vũ trụ mà người thầy thủ đắc được. Bí quyết của hiệp khí có được khi bạn hợp nhất với thiên nhiên, đồng điệu và chiếm lĩnh cái tâm của vũ trụ, và khi đó có ai đó toan tấn công bạn thì chính anh ta đã tự bước ra ngoài vũ trụ”.

Võ sư Hàng Thanh giải thích rõ về Hỗn Nguyên khí công là: “Hiểu một cách rành rẽ hơn, điều tức là cách điều khiển khối Tiên thiên khí hay Hỗn nguyên khí của vũ trụ, một loại khí có sức ép khoảng trăm triệu tấn trên mỗi phân vuông (cm2) vật chất trên và trong quả địa cầu. Với sức ép này, mọi vật thể đều bị khí xuyên qua dễ dàng dù vật thể là sắt thép, đá và ngay như quả địa cầu với bán kính 6.366 km, Hỗn nguyên khí vẫn xuyên qua và không để lại một dấu vết nào … Nói rõ hơn, luyện nội công tức lợi dụng cái sức mạnh của thiên nhiên là khí hỗn nguyên làm sức mạnh của ta. Nhờ tính xuyên qua mọi vật chất như quang tuyến X qua lớp thịt mỏng nên nội gia tích và tán khí đi khắp nơi trong châu thân”.

Chính Ueshiba Morihei cũng có một câu nói nổi tiếng liên quan đến vấn đề này trong bài thuyết trình của ông trước công chúng khi giải thích về môn phái Aikido. Ông cho rằng: “Võ đạo thực sự là sự sắp xếp lại năng lượng bên trong của vũ trụ, bảo vệ nền hòa bình thế giới, tạo dựng và gìn giữ mọi thứ hòa hợp trong tự nhiên của nó”.

Chủ Nhật, 21 tháng 12, 2014

Huyền bí những xác ướp nguyên vẹn của người Việt cổ

Lúc mới lộ thiên, làn da toàn thân bà vẫn trắng mịn, mềm mại, các khớp chân, tay có thể co duỗi dễ dàng.

Theo các nhà khoa học, ở Việt Nam, khái niệm xác ướp ít được biết tới và không có bất kỳ tài liệu nào đề cập tới vấn đề này. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều ngôi mộ cổ khi khai quật vẫn còn giữ được xác.

Từ những khám phá này đã có nhiều nghiên cứu về kỹ thuật dùng các chất thơm thảo mộc hay dùng các chất hóa học tổng hợp để giữ xác của các bậc tiền nhân.

Những xác ướp bí ẩn


Theo PGS-TS Nguyễn Lân Cường, cho đến nay ở Việt Nam đã phát hiện được trên 100 ngôi mộ hợp chất (là loại mộ cổ quan tài được đặt trong quách bằng hợp chất, còn gọi là tam hợp). Trong số đó chúng ta đã khai quật chính thức và khai quật “chữa cháy” (những ngôi mộ bị người dân đào trộm và bỏ lại) khoảng gần 60 ngôi mộ. Trong những ngôi mộ được khai quật đã phát hiện rất nhiều ngôi mộ còn giữ được xác. Nổi tiếng nhất là xác ướp của vua Lê Dụ Tông (1679-1731). Việc tìm thấy xác ướp vua Lê Dụ Tông là một phát hiện chấn động trong ngành khảo cổ và sử học Việt Nam đương thời.


Tài liệu của cố Giáo sư Đỗ Xuân Hợp (nguyên Giám đốc Học viện Quân y) khi khai quật và nghiên cứu thi hài vua Lê Dụ Tông tiết lộ: Xác là một người đàn ông cao 1,49m. Thân hình bị đét lại nhưng hình dạng bên ngoài vẫn còn nguyên. Khi mới mở áo quan, trông như một người gầy ốm mới chết, bụng dưới hơi phồng, lấy tay ấn vào bụng thấy có hơi và ít nước chảy ra (khác với những xác khác bụng lép). Không có một vết rạch hay châm chích gì trên cơ thể. Lúc quan tài mới bật nắp, gương mặt nhà vua có màu xám nhạt hơi khác với màu da cơ thể nhưng sau đó toàn thân chuyển thành màu xám đen.

Kỳ lạ nhất là các khớp xương của vua vẫn còn có thể co duỗi mềm mại và nhiều vùng da thịt vẫn còn đàn hồi… Mộ vua Lê Dụ Tông được tìm thấy từ năm 1958, tại thôn Bái Trạch, xã Xuân Giang, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Đến năm 1964 mộ mới được khai quật. Xác ướp vua Lê Dụ Tông được bảo quản ở tầng hầm Bảo tàng Lịch sử Việt Nam trong 46 năm và được hoàn táng tại tỉnh Thanh Hóa tháng 1.2010.

Trước đó, vào năm 1957 các nhà khảo cổ đã tiếp cận được với xác ướp của một bà phi thuộc dòng họ Trịnh tại Thanh Hóa. Bia mộ đề thời gian chôn cất thuộc niên hiệu Vĩnh Trị (1676-1680). Mặc dù ngôi mộ đã bị người dân địa phương đào, xác ướp bị đưa ra khỏi quan tài, vùi lấp tạm bợ giữa cánh đồng ba ngày rồi chôn lại trong quan tài ngập nước gần một tháng nhưng khi các nhà khảo cổ tiếp cận, xác ướp vẫn còn nguyên vẹn và có mùi dầu thơm. Sau đó xác ướp được tắm lại bằng nước sạch năm lần vẫn không hết mùi thơm. Điểm đặc biệt của ngôi mộ này là dấu vết của dung dịch bảo quản xác lan tỏa ra ngoài khiến vùng đất quanh mộ nhiễm mùi thơm một thời gian dài mới hết.

Ly kỳ hơn là trường hợp mộ cổ Vân Cát nằm trong gò đất của thôn Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định. Cuộc khai quật diễn ra trong tháng 11.1968, theo nhà khảo cổ Đỗ Đình Truật khi mở nắp quan tài là một người phụ nữ như đang say ngủ, lòng quan tài bốc mùi thơm thảo mộc thoang thoảng. Gương mặt bà vẫn mịn màng, thanh thoát nét đài các, dịu dàng. Có cảm giác nếu thay quan tài là giường mọi người sẽ nghĩ bà đang mê man giấc ngủ bình yên. Đó là người phụ nữ khoảng 60 tuổi, tóc dài chớm hoa râm.

Lúc mới lộ thiên, làn da toàn thân bà vẫn trắng mịn, mềm mại, các khớp chân, tay có thể co duỗi dễ dàng. Mô ngực vẫn còn hình hài chưa xẹp xuống hoàn toàn. Đặc biệt, hốc mắt vẫn còn rõ lòng đen, trắng. Hai hàm răng nhuộm đen cũng chưa rụng chiếc nào. Tình trạng của xác ướp trong mộ khá hoàn hảo.

Xác ướp được mặc 35 chiếc áo thụng bằng lụa gấm, 18 chiếc váy vải lụa. Các hiện vật khác gồm hàng chục chiếc gối chèn lớn nhỏ, quạt nan giấy, túi trầu bằng gấm thêu với 10 miếng trầu đã têm và 10 miếng cau tươi, túi gấm đựng thuốc lào, khăn lau miệng bằng lụa, mũ lụa… Về sau xác ướp được xác định là bà Phạm Thị Đằng, phu nhân của quan thượng thư Đặng Đình Tướng (1649-1735).

Tương tự như vậy là những trường hợp phát hiện xác ướp của bà Bùi Thị Khang vào năm 1971 tại gò Lăng Dứa, xã Thượng Lâm, huyện Mỹ Đức (Hà Nội), bà cũng là phu nhân của quan thượng thư Đặng Đình Tướng. Xác ướp Đại Tư đồ quan thái giám Nguyễn Bá Khanh mất vào thế kỷ 18 (thọ 64 tuổi) ở An Vĩ, huyện Khoái Châu, Hải Dương năm 1982. Xác ướp của bà Nguyễn Thị Hiệu, một nữ quý tộc dưới thời nhà Nguyễn, hay mộ Đinh Văn Tả cùng 2 bà vợ ở Hàm Giang, Cẩm Giàng (Hải Dương).

Gần đây nhất là trường hợp phát hiện một xác ướp của một người đàn ông khoảng 60 tuổi còn nguyên vẹn được bọc trong nhiều lớp vải và ngâm dầu thơm tại khu vực vườn đào Nhật Tân năm 2005. Tất cả các xác ướp này khi được phát hiện đều có chung một đặc điểm là dùng các chất thơm thảo mộc hay dùng các chất hóa học tổng hợp để giữ xác không bị các vi khuẩn làm thối rữa.

Đi tìm lời giải

Để bảo vệ xác ướp không bị thối rữa sau hàng trăm năm, người xưa thường phải kết hợp giữa kỹ thuật kết cấu xây dựng ngoài quách gắn với kỹ thuật ướp xác trong quan, hướng tới một môi trường khử trùng tốt. Điều này được chứng minh ở việc cấu tạo của các ngôi mộ gần như giống nhau: có gò mộ, phía ngoài là quách tam hợp, phía trong là quách gỗ rồi mới tới quan tài. Với kỹ thuật này tạo nên sự cách biệt ổn định bên trong và bên ngoài mộ hình thành khoảng không gian hẹp kín bên trong để giữ thi thể được tốt nhất.

Về kỹ thuật ướp xác trong quan, theo tài liệu của cố giáo sư, bác sĩ Đỗ Xuân Hợp qua nghiên cứu thi hài vua Lê Dụ Tông đã ghi lại: Dầu thông đã được đổ nhiều vào trong quan tài nên khi mở ra thấy chăn bông, vải niệm, áo mặc, giấy bản đẫm dầu và mỡ. Chất thơm ngấm vào da, và qua da vào các tạng nên sực mùi thơm… Ngay thi hài vua cũng nhớp nháp dầu thông. Chính loại dầu thân mộc này là một yếu tố quan trọng góp phần bảo quản được xác tiền nhân. Thậm chí những miếng trầu, cau chôn theo hàng trăm năm còn xanh tươi như vẫn có thể dùng được.

Còn theo nghiên cứu của cố giáo sư Đỗ Văn Ninh, việc xử lý thi hài rất quan trọng để giữ xác.

Người xưa thường quản xác rất lâu trước khi chôn nên rất chú trọng việc chống thối rữa. Ngoài dầu thông được đổ vào quan tài, người sắp qua đời thường được uống thuốc “hồi dương” có quế nóng để giúp tăng tuần hoàn máu. Sau đó lại dùng rượu quế để tắm rửa cho người mất cũng như làm sạch được phần nào trong và ngoài thi hài để giảm sự phân hủy do vi khuẩn. Đặc biệt, khi nhập liệm người xưa thường chèn nhiều chăn, gối, quần áo, giấy bản, bông vào quan tài có rải gạo rang, chè khô bên dưới. Ngoài ý nghĩa tùy táng mang về thế giới bên kia, các thứ này còn hút ẩm và đẩy không khí ra ngoài để hạn chế môi trường vi khuẩn hại xác. Thậm chí trước khi nhập liệm, người ta còn đốt nến trong quan tài như là một lễ thức, nhưng cũng góp phần tạo môi trường chân không và sát khuẩn.


Về lớp quách tam hợp, PGS-TS Nguyễn Lân Cường, một người đã gần 50 năm gắn bó với công tác khảo cổ cho biết, quách bao kín các mặt quan tài, kể cả đáy với độ dày có khi lên tới nửa mét để bảo vệ quan tài và xác ướp bên trong khỏi bị tác hại của nước và không khí lọt vào. Lớp quách thường rất rắn chắc, phải dùng khoan bê tông hay đục cỡ lớn mới phá được vì hợp chất được kiến tạo rất công phu và tốn kém. Vật liệu để làm hợp chất thường được trộn nhuyễn bằng vôi - vôi sống, vôi tôi, vỏ nghêu sò hay san hô nghiền vụn, cát, chất kết dính như mật, mật đường, mật ong, nhựa, dây tơ hồng, ô dước, giấy dó, than hoạt tính để bao kín mui luyện quách ngoài, tạo nên bức tường thành kiên cố không thấm nước, nhằm giữ xác dài lâu, bảo tồn vĩnh cửu thi hài và tùy táng phẩm trong quan.

Ngoài kỹ thuật xử lý xác và phần quách thì phần gỗ quan tài cũng rất quan trọng để giữ xác. Gỗ quan tài thường được chế tác bằng gỗ Ngọc am (Trung Quốc gọi là San mộc) hay còn được gọi là gỗ Hoàng đàn rủ. Đây là loại cây gỗ trong bộ thông, thuộc họ hoàng đàn, sống trên vùng núi đá vôi ở Hà Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng… Gỗ quý này bền thơm và có tính sát khuẩn cao nên góp phần bảo quản thi hài. Dưới đáy quan tài có một tấm thất tinh (tấm gỗ có 7 lỗ thủng mô phỏng chòm sao Bắc Đẩu, vì theo quan niệm người xưa đây là ngôi sao quản người chết).

Đặc biệt người xưa còn biết làm quan tài rất kín, chắc với các mộng ghép chặt chẽ. Hàng trăm năm trong lòng đất, quan tài gỗ này vẫn không hư hỏng và thoang thoảng mùi thơm thân mộc khi khai quật. Những thi hài dù không được ướp dầu thông thơm cũng không thể ám mùi hôi vào gỗ quan. Người chết được mặc rất nhiều lớp quần áo, quấn thật chặt, khi đặt vào quan tài cũng được lèn bằng các loại chăn, gối…

Như vậy theo lý giải của các nhà khoa học, có thể thấy kỹ thuật ướp xác của người xưa chủ yếu dựa vào việc diệt các loại vi khuẩn chuyên hủy chất hữu cơ. Tuy nhiên bí mật về những xác ướp này luôn đi kèm với những truyền thuyết và thông điệp từ quá khứ, tạo nên những thách thức cho hậu thế trong những cuộc kiếm tìm và giải mã. Và chính điều đó giúp cho chúng ta có được một góc nhìn sống động về lịch sử.

Thứ Sáu, 19 tháng 12, 2014

Bí ẩn vụ trộm tranh lớn nhất lịch sử nước Mỹ

Vào ngày 18/3/1990, một nhóm "cảnh sát dỏm" đến Bảo tàng Isabella Stewart Gardner ở Boston, Mỹ và thực hiện trót lọt vụ trộm tranh nổi tiếng thế giới.

Nhóm trộm giả mạo cảnh sát đã cuỗm đi 13 bức tranh, trong đó có các kiệt tác của Rembrandt, Vermeer và Degas trị giá 500 triệu USD. Chính vì vậy, đây được coi là vụ trộm tác phẩm nghệ thuật lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ.


Sự việc xảy ra vào lúc nửa đêm ngày 18/3/1990, hai người đàn ông giả trang, mặc sắc phục của cảnh sát đã qua mặt các bảo vệ tại bảo tàng Isabella Stewart Gardner. Bọn tội phạm đã giả danh cảnh sát để khám xét khu nhà. Khi đó, các nhân viên an ninh của bảo tàng không chút hoài nghi thân phận 2 cảnh sát dỏm trên và cho bọn tội phạm vào bên trong.

Sau đó, một trong hai tên cảnh sát dỏm đã còng tay 2 bảo vệ khi nói có lệnh bắt giữ người này rồi yêu cầu bảo vệ rời vị trí đứng gác. Chỉ trong vòng 81 phút, bọn tội phạm đã cuỗm 13 bức tranh có tổng giá trị 15 triệu USD.


Bảo tàng Isabella Stewart Gardner - nơi 2 tên trộm giả mạo cảnh sát ăn trộm 13 bức tranh trị giá 500 triệu USD.

Vào thời điểm đó, an ninh tại bảo tàng Isabella Stewart Gardner được tổ chức khá lỏng lẻo. Thêm vào đó, bảo tàng cũng không mua bảo hiểm cho số tác phẩm nghệ thuật trong trường hợp bị trộm cắp. Đặc biệt, một trong những nhân viên an ninh bảo tàng này đã hút cần sa trước khi làm việc vào hôm xảy ra vụ trộm.

FBI đã treo thưởng cho người nào cung cấp thông tin về những bức tranh bị đánh cắp tại bảo tàng Isabella Stewart Gardner sẽ được thưởng 5 triệu USD. Giới chức trách cũng từng hoài nghi những tên trộm tranh trên đến từ một băng đảng tội phạm có cơ sở tại các bang như Connecticut, Massachusetts, New Hampshire, New Jersey, New York…


Hình ảnh từ camera an ninh của bảo tàng Isabella Stewart Gardner cho thấy tên trộm ung dung mang những bức tranh "cuỗm" được ra khỏi bảo tàng. 

Vào tháng 5/2012, giới chức trách bang Connecticut đã cáo buộc Robert Gentile, 76 tuổi, có liên quan đến vụ trộm tranh ở bảo tàng Isabella Stewart Gardner năm 1990. Tuy nhiên, luật sư của Robert Gentile đã chứng minh thân chủ của mình không hề biết tới vụ trộm tranh này. Do vây, Robert không bị định tội.

Đến tháng 3/2013, FBI thông báo đã xác định được danh tính hai tên trộm tranh năm xưa và rất có khả năng chúng đã giấu những bức tranh đó ở Connecticut hoặc khu vực Philadelphia. Tuy nhiên, cho đến nay giới chức trách Mỹ vẫn chưa tìm ra tung tích 13 bức tranh trị giá 500 triệu USD trên.

Thứ Năm, 18 tháng 12, 2014

Vén màn bí ẩn sau chương trình tra tấn của CIA

Tiết lộ mới đây về chương trình tra tấn của CIA đã khiến nó phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng chưa từng có trong lịch sử của mình.

Nhưng tại sao CIA lại dấn thân vào một hoạt động được cho là đi ngược lại chính Tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp Mỹ và quy mô của chương trình tra tấn kể trên rộng lớn đến đâu?

Sự thất bại của ngành tình báo


Nhìn lại bối cảnh nước Mỹ sau vụ 11/9, người dân Mỹ hoảng loạn vì cơn ác mộng khủng bố, họ lo sợ vì biết quá ít về những nguy cơ từ mạng lưới Al Qaeda.

Họ thậm chí còn đặt ra giả thuyết rằng rất có thể Al Qaeda có một chi nhánh đang hoạt động tại Mỹ và bất kỳ lúc nào cũng có thể triển khai các vụ tấn công khủng bố tiếp theo và không loại trừ tấn công bằng vũ khí hạt nhân.

Giới chức Washington không biết nhiều về Al Qaeda, cũng như năng lực và ý đồ của chúng. Chính sự thiếu hiểu biết này khiến người ta thường nghĩ tới những kịch bản tồi tệ nhất.

Vì vậy, thu thập thông tin tình báo một cách nhanh chóng nhất trở thành một ưu tiên tối thượng cho an ninh quốc gia Mỹ thời điểm đó. Người dân Mỹ đang ngóng chờ bộ máy an ninh đồ sộ và chuyên nghiệp bậc nhất hành động đáp trả chủ nghĩa khủng bố.

Điều này đã dẫn tới sự cho phép tiến hành việc tra tấn tù nhân vì đây là biện pháp giúp thu được thông tin một cách nhanh chóng, hay ít nhất đó là cách để kéo dài thời gian trong khi tìm kiếm những phương pháp khác. Nói đúng hơn, tra tấn tù nhân thể hiện sự bế tắc của hệ thống tình báo Mỹ sau khi đã không ngăn chặn thành công âm mưu khủng bố của Al Qaeda.

Giới chức Nhà Trắng có thể không chắc việc tra tấn tù nhân có thể phát huy hiệu quả, nhưng họ cũng cảm thấy rằng không có quyền bỏ qua lựa chọn này.

Trong khi đó, giới chức an ninh Mỹ lựa chọn phương pháp tra tấn vì họ đã hứng chịu một thất bại to lớn về mặt tình báo. Sử dụng công cụ tra tấn, do vậy, không phải là một phần của nỗ lực tình báo, mà là sự phản ứng trước sự thất bại của tình báo.

Sự thất bại này bắt nguồn từ một loạt các tính toán sai lầm của CIA trong suốt thời gian dài. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, người ta tin rằng Mỹ không cần phải có nhiều nỗ lực thu thập nhiều thông tin tình báo, trong khi những chuyên gia về Trung Đông của Mỹ đã không hiểu rằng Al Qaeda đã cơ bản trở thành lực lượng khác hẳn thời điểm mà Mỹ hợp tác để đối phó với Liên Xô.

Quy mô lớn và chuyên nghiệp

Trong số rất nhiều những phát hiện của cuộc điều tra do Ủy ban Tình báo Thượng viện Mỹ tiến hành về việc CIA sử dụng tra tấn như một công cụ, có một chi tiết rất quan trọng, đó là: CIA đã ủy nhiệm hoạt động “thẩm vấn tăng cường” của mình cho các đơn vị nước ngoài.

Nói cách khác, CIA đã chuyên nghiệp hóa hoạt động tra tấn bằng cách hình thành nên một mạng lưới các trung tâm thẩm vấn ở nhiều nơi trên thế giới.

Chương trình tra tấn của CIA thậm chí còn quy mô hơn những gì vừa được Ủy ban Tình báo Thượng viện công bố. CIA vận hành một danh sách đen các cơ sở giam giữ mật và các nhà tù tra tấn rộng lớn trên khắp thế giới. CIA còn sử dụng một mạng lưới các quốc gia giúp tổ chức tình báo này bắt giữ, vận chuyển và tra tấn tù nhân.

Mạng lưới này nằm trong chương trình truy bắt nghi can khủng bố quy mô lớn với sự tham gia của 54 quốc gia, trong đó có: Australia, Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, các nước Bắc Phi, Trung Đông, vùng Vịnh, Đông Nam Á… Tuy nhiên, không phải tất cả các nước này đều tham gia trực tiếp vào chương trình tra tấn của CIA.


Những nơi CIA đặt các trung tâm thẩm vấn trên thế giới. 

Trong đó, Ba Lan được nhắc tới như là một trong những mắt xích quan trọng của mạng lưới trên toàn thế giới của CIA, nơi các nghi can của Al Qaeda bị giam giữ, thẩm vấn bằng các kỹ thuật mà những nhóm nhân quyền coi là sự tra tấn. Tài liệu của Tòa án Nhân quyền châu Âu tiết lộ CIA đã điều hành một cơ sở mật gần làng Stare Kiejkuty, đông bắc Ba Lan.

Giới thạo tin cho hay Ba Lan dường như đã buộc phải chấp nhận sự tồn tại của nhà tù này để giữ mối quan hệ với Washington, mặc dù họ biết điều đó có thể dẫn tới những cáo buộc về pháp lý.


Sau khi Thượng viện Mỹ công bố báo cáo về chương trình tra tấn của CIA, cựu Tổng thống Ba Lan Kwasniewski đã lên tiếng thừa nhận có một nhà tù của CIA tồn tại ở quốc gia này, nhưng không quên nhấn mạnh dưới áp lực của Vacsava chiến dịch mật đã bị đình chỉ. Nhà tù này được cho là đã hoạt động từ tháng 12/2002 tới mùa thu năm 2003.

Để làm căn cứ hợp tác với Mỹ, Ba Lan đã đề nghị ký một biên bản ghi nhớ về vai trò và trách nhiệm của CIA đối với cơ sở này, song cơ quan tình báo Mỹ đã từ chối.

Một lần, chính phủ Ba Lan từ chối chấp nhận chuyển những tù nhân mới, trong đó có Khalid Sheikh Mohammed (người đã bị CIA tra tấn tới 183 lần), nhưng sau đó đã phải thay đổi quyết định khi đại sứ Mỹ tại nước này can thiệp. Vài tháng sau CIA đã chuyển cho Ba Lan nhiều triệu USD.

Ngoài Ba Lan, để thực hiện được chương trình tra tấn bí mật, CIA đã thu hút một số quốc gia tham gia vào các hoạt động bí mật này. Trong danh sách đen của CIA còn có các trung tâm tại Vịnh Guantanamo, Cuba, Afghanistan (4 cơ sở), ở châu Âu có Romania, Lithuania và châu Á có Thái Lan.

Tuy nhiên, đó chỉ là số ít những thông tin tiết lộ về chương trình quy mô và mờ ám của CIA mà nhiều người tin rằng điều này chưa phản ánh hết về quy mô và mức độ khủng khiếp trên thực tế của chương trình mờ ám trên, bởi chắc chắn công luận không bao giờ có thể biết hết được về hoạt động ngầm của CIA.

Thứ Ba, 16 tháng 12, 2014

Phát hãi “thí nghiệm quái vật” trên con người năm 1939

Năm 1939, Wendell Johnson tiến hành thí nghiệm khủng khiếp trên 22 trẻ mồ côi bị nói lắp ở Davenport, Iowa (Mỹ) và gây ra hậu quả kinh hoàng.

Nhà khoa học Wendell Johnson đã tiến hành thí nghiệm rùng rợn đối với những trẻ mồ côi bị nói lắp ở Đại học Iowa. Ông đã chọn Mary Tudor - một trong những sinh viên tốt nghiệp của mình giúp tiến hành và giám sát hoạt động nghiên cứu trên.


Sau đó, Wendell đã chia 22 trẻ mồ côi bị nói lắp trên thành 2 nhóm để nghiên cứu. Theo đó, một nhóm được áp dụng phương pháp điều trị tích cực bằng cách khen ngợi, khuyến khích khả năng nói trôi chảy của các em. Trong khi đó, nhóm còn lại được áp dụng phương pháp điều trị tiêu cực: bị chê trách khi nói chuyện không trôi chảy hay mắc lỗi cũng như luôn nói với họ là người bị nói lắp.



Một số trẻ mồ côi nói lắp sau khi trải qua chương trình điều trị khủng khiếp của nhà khoa học Wendell đã bị tổn thương tâm lý đến hết đời.

Sau một thời gian điều trị theo 2 phương pháp đối lập trên, một số trẻ mồ côi trước đây bị nói lắp đã nói chuyện được bình thường nhưng lại chịu những chấn thương tâm lý nặng nề. Một số vẫn bị nói lắp hay mắc phải một số vấn đề khi nói chuyện với mọi người từ đó cho đến cuối đời.

Các đồng nghiệp của Wendell đã gọi nghiên cứu hãi hùng trên là “Thí nghiệm quái vật” khi sử dụng trẻ mồ côi nói lắp để chứng minh học thuyết của mình. Thí nghiệm này đã được giới chức trách giữ kín do lo sợ danh tiếng của Wendell bị ảnh hưởng. Vụ việc cũng bị chính quyền Mỹ giấu nhẹm xuất phát từ bối cảnh các thí nghiệm trên cơ thể người của Đức quốc xã đang bị cộng đồng thế giới lên án, chỉ trích dữ dội. Mãi đến năm 2001, Đại học Iowa mới chính thức xin lỗi về việc đã thực hiện thí nghiệm hãi hùng đối với trẻ mồ côi năm 1939.

Sự thật rùng rợn về việc chôn cất thời xưa

Nhà thờ Enon, Anh từng là nơi yên nghỉ của hàng ngàn người bên dưới sàn nhà nhưng nơi đây cũng ẩn dấu một sự thật khủng khiếp.

Vào thời xưa, trước khi nghĩa trang được xây dựng thành khu riêng biệt, người dân thường chôn cất người quá cố ở trong khu nghĩa địa của nhà thờ tại Anh. Điều này sẽ đem lại nhiều lợi ích cho các nhà thờ. Một trong những nơi yên nghỉ của người quá cố ở xứ sở sương mù thời xưa là nhà thờ Enon.


Khi đó, nhà thuyết giáo của nhà thờ Enon đã đồng ý chôn cất người chết bên dưới sàn nhà (tầng hầm) do được một số lợi ích. Trung bình, mỗi tuần có khoảng 30 thi thể được đem đến đây. Khi dưới sàn nhà thờ chứa hơn 12.000 thi thể, nơi đây buộc phải xếp chồng thi thể người chết lên trên trần nhà.



Khi nhà thờ Enon không còn chỗ trống, chức sắc ở đây đã lén mang những thi thể ra sông Thames.
Vào những ngày người dân đến cầu nguyện, họ bị ngất xỉu do ngửi thấy mùi xác chết từ dưới sàn nhà bốc lên. Thêm vào đó, trẻ em bị ám ảnh về câu chuyện những xác chết bay lượn phía trên khi đến nhà thờ làm lễ ngày Chủ Nhật.


Đến khi sàn và trần của nhà thờ Enon đã chật kín, không còn nơi để thi hài người quá cố, những xác chết được xếp lên xe bò rồi chở ra đổ ở sông Thames.

Thỉnh thoảng, một số phần thi thể người quá cố rơi ra khỏi xe và người dân địa phương tìm thấy hộp sọ nằm rải rác trên đường. Khi chính quyền phát hiện hành động phi đạo đức của nhà thờ Enon, họ đã cho đóng cửa nơi đây.

Chủ Nhật, 14 tháng 12, 2014

Giải mật: Liên Xô viện trợ Việt Nam bao nhiêu vũ khí?

Số lượng vũ khí mà Liên Xô viện trợ cho Việt Nam là một câu hỏi thú vị, cần lời giải đáp.

Bài viết sau đây trích từ chuyên mục “Nhìn lại ngày hôm qua” của đài Sputnik với chủ đề nói về sự giúp đỡ của Liên Xô với Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Nga-Việt vào tháng Giêng tới. Sau đây là nội dung bài viết:


Quan sát viên đài chúng tôi Aleksei Lensov viết: Trong buổi phát tranh lần trước, chúng tôi đã nói về sự hỗ trợ mà Liên Xô dành cho Việt Nam sau cuộc kháng chiến chống Pháp. Khi Mỹ bắt đầu cuộc chiến trên không chống miền Bắc Việt Nam, ban lãnh đạo Liên Xô đã lập chương trình cung cấp viện trợ quân sự cho nước này. Kế hoạch khi ấy là viện trợ vũ khí và thiết bị quân sự khoảng 10 triệu rúp cho Việt Nam – xin nói rõ rằng đồng rúp của Liên Xô thời đó rất có giá trị.


Các phi công Việt Nam với máy bay Mig-17 do Liên Xô viện trợ để chống Mỹ. Ảnh minh họa 

Để thống nhất với nhau về quy mô và tốc độ viện trợ, tháng Hai năm 1965, phái đoàn Liên Xô đứng đầu là Thủ tướng Kosygin đã đến Hà Nội. Tham gia cuộc đàm phán có các ông Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp. Khi cuộc đàm phán đang diễn ra, không quân Mỹ đã tiến hành cuộc không kích lần thứ hai vào Hà Nội. Nếu Hoa Kỳ dự định đe dọa ban lãnh đạo Liên Xô, cảnh báo họ về việc giúp đỡ Việt Nam, thì họ đã nhận được kết quả hoàn toàn ngược lại. Sử gia Moskva kiêm nhà Việt Nam học Maksim Syunnerberg cho biết:

“Theo các nhân chứng, vốn là người luôn luôn điềm tĩnh và kín đáo, Thủ tướng Liên Xô Kosygin rất phẫn nộ vì sự ngang ngược của người Mỹ. Ngừng cuộc đàm phán, ông gọi về Moskva báo cáo với ban lãnh đạo Liên Xô rằng, theo ý kiến của ông, cần đáp trả hành động của Mỹ bằng cách cung cấp viện trợ cho Việt Nam với quy mô lớn hơn và thời gian nhanh hơn so với dự kiến trước đây".

Quan sát viên đài chúng tôi Aleksei Lensov viết tiếp: Quan điểm của ông Kosygin được ban lãnh đạo ở Moskva hoàn toàn ủng hộ. Tại cuộc đàm phán ở Hà Nội, hai bên đã đạt được tất cả các thoả thuận thích hợp. Đặc biệt là quyết định thành lập bốn trung đoàn tên lửa thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam và gửi đến VNDCCH các chuyên gia quân sự, các thiết bị quân sự và vũ khí Liên Xô hiện đại nhất thời kỳ đó.

Và trong những năm tiếp theo, tại tất cả các cuộc gặp liên chính phủ Xô-Việt, khối lượng quân sự của Liên Xô dành cho Việt Nam được điều chỉnh theo chiều hướng tăng lên.



Các xe tăng T-54/55 xuất xứ Liên Xô đến nay vẫn được quân đội Việt Nam sử dụng.

Trong giai đoạn 1953-1991, Liên Xô cung cấp cho Việt Nam 2000 xe tăng, xe bọc thép, 1700 pháo và súng cối, hơn 5000 pháo cao xạ, 158 tên lửa phòng không, hơn 700 máy bay chiến đấu, 120 máy bay trực thăng, hơn 100 tàu chiến, đã triển khai 117 cơ sở quân sự. Đa số viện trợ này được cung cấp cho Việt Nam trong giai đoạn cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tại thời điểm đó, viện trợ quân sự chiếm hơn 60% tổng viện trợ của Liên Xô dành cho VNDCCH.

Vũ khí và trang thiết bị đã được chuyển giao trong khối lượng mà phía Việt Nam có thể sử dụng. Xét về giá trị, đó là khoảng 2 triệu $/ngày - và như vậy cho tất cả những năm chiến tranh. Cũng cần lưu ý rằng tất cả mọi viện trợ này đều không hoàn lại.

Trang thiết bị quân sự được gửi từ Liên Xô đến Việt Nam là loại hiện đại nhất tại thời điểm đó. Ví dụ, tên lửa chống máy bay "Dvina" đã có thể bắn trúng mục tiêu trên không, ngay cả ở độ cao 25 km. "Từ trước tới nay, đây là vũ khí lợi hại nhất bắn từ mặt đất tới máy bay" - “Tạp chí quân sự-kỹ thuật" của Mỹ thời đó đã bình luận như vậy.


Các tên lửa Sam-2 mà Liên Xô gọi là Dvina đã giúp Việt Nam chiến thắng các máy bay B-52 của Mỹ.

Tên lửa "Dvina" đã tiêu diệt những chiếc máy bay địch đầu tiên trên bầu trời Việt Nam vào ngày 24/7/1965. Ngày này trở thành lễ kỷ niệm thành lập lực lượng tên lửa Việt Nam. Tháng Hai năm 1967, tại khu vực vĩ tuyến 17, hai "pháo đài bay" "B-52" đầu tiên đã bị bắn rơi bằng loại tên lửa này.

Thời gian đầu, chuyên gia quân sự Liên Xô đã điều khiển tên lửa bắn máy bay của đối phương, bộ đội tên lửa Việt Nam làm trợ lý cho họ. Một trong những bậc thầy tên lửa tại Việt Nam là Trung Tá Phedor Ilyin. Ông đã chỉ huy 18 trận đánh, bắn rơi 24 máy bay Mỹ. Thiếu tá Tereshchenko tham gia 11 trận và bắn rơi 10 máy bay. Thiếu tá Ryzhikh trong 9 trận bắn rơi 8 máy bay. Đại úy Bogdanov bắn rơi 8 máy bay trong 10 trận đánh...

Mỹ định dùng B-52 hủy diệt Việt Nam năm 1972 nhưng họ đã phải chuốc lấy thất bại đau đớn. 


Lực lượng tên lửa phòng không đã chứng tỏ khả năng chiến đấu của mình trong vụ Mỹ không kích Hà Nội nhân dịp Giáng sinh 1972. Họ đã bắn rơi 54 máy bay Mỹ - đó là hai phần ba số máy bay kẻ thù bị bắn rơi trong khoảng thời gian này. Trong số đó có 31 máy bay ném bom chiến lược "B-52". Mỗi chiếc “Pháo đài bay” mang theo 25 tấn bom, có thể tiêu diệt toàn bộ dân cư và tất cả các tòa nhà trong khu vực tương đương với 30 sân bóng đá.

Trong suốt thời gian chiến tranh, lực lượng tên lửa phòng không của VNDCCH, do các chuyên gia Liên Xô đào tạo, đã tiến hành 3328 trận đánh, tiêu diệt khoảng 1.300 máy bay Mỹ, trong đó có 54 máy bay ném bom chiến lược "B-52".

Tất nhiên, Liên Xô không chỉ viện trợ cho VNDCCH tên lửa chống máy bay. Trong cuộc mạn đàm tiếp theo, chúng tôi sẽ tiếp nối chủ đề này.

Thứ Sáu, 12 tháng 12, 2014

Thí nghiệm địa ngục trong nhà tù giả rúng động TK 20

Năm 1971, nhà tâm lý học Philip Zimbardo đã dẫn đầu cuộc thí nghiệm ghê rợn tại nhà tù giả tại Đại học Stanford (Mỹ).

Thí nghiệm nhà tù Stanford là một nghiên cứu tâm lý nhằm tìm hiểu và đánh giá về hành vi của tù nhân và cai ngục cũng như xem xét biểu hiện của họ trong từng vai trò khác nhau.


Thí nghiệm trên do nhóm các nhà nghiên cứu dẫn đầu là nhà tâm lý học Philip Zimbardo công tác tại Đại học Stanford (Mỹ) tiến hành vào năm 1971.

Các tình nguyện viên tham gia chương trình thí nghiệm trên là các sinh viên chưa tốt nghiệp đại học. Họ được chia làm hai nhóm. Một nhóm đóng vai "cai ngục" và một nhóm đóng vai "tù nhân" sống trong một nhà tù giả được dựng dưới tầng hầm của Đại học Stanford.



Khi tiến hành thí nghiệm trên, các “tù nhân” và “cai ngục” nhanh chóng thích nghi với vai trò mới của mình. Thậm chí, những tình nguyện viên còn “nhập vai” quá tốt so với dự kiến của các nhà khoa học. Chính vì vậy, họ đã gặp phải một số tình huống nguy hiểm và bị tổn thương tâm lý.


Cụ thể, 1/3 "cai ngục" được đánh giá xuất hiện hành vi bạo lực, tàn bạo, trong khi nhiều "tù nhân" bị tổn thương về mặt tinh thần ngay cả sau khi kết thúc cuộc thí nghiệm. Ngay sau đó, thí nghiệm man rợ trên nhanh chóng bị hủy bỏ do những tác động tiêu cực đến đối tượng tham gia. Cuối cùng, dưới sức ép đến từ sự phản đối của dư luận về việc lạm dụng các tình nguyện viên, nhà tâm lý học Zimbardo đã chấm dứt toàn bộ thí nghiệm man rợ trên sớm hơn dự định.

Thứ Ba, 9 tháng 12, 2014

Chuyện ly kỳ về dị nhân "sâu bướm"

Mặc dù không có tay, chân ngay từ khi chào đời nhưng Prince Randian là tấm gương sáng đầy nghị lực khi có thể viết, vẽ, tự cạo râu...

Prince Randian sinh ở Demarara, British Guyana năm 1871. Ông là con của cặp vợ chồng nô lệ người Ấn Độ. Mặc dù không có tay, chân nhưng ông là tấm gương đầy nghị lực, vượt lên số phận khiến mọi người cảm phục.

Randian còn được biết đến như một con sâu bướm do hình dáng lúc ông di chuyển giống loài vật này, thậm chí được gọi là người gối và người xì gà khi có khả năng cuộn, châm lửa và hút thuốc. Thêm vào đó, ông có thể tự cạo râu, viết, vẽ...



Prince Randian - người không tay, không chân nhưng có khả năng viết, vẽ, tự cạo râu... khiến mọi người kinh ngạc, khâm phục nghị lực phi thường của ông.

Vào những năm 1980, ông đến Mỹ sinh sống. Tại đây, ông đã có những buổi biểu diễn thể hiện khả năng độc đáo, phi thường của mình tại các bảo tàng hay show diễn của PT Barnum. Ông Guyana đã có những màn trình diễn ấn tượng mà không có tay, chân.

Ông Guyana đã kiếm sống bằng công việc biểu diễn như trên trong suốt 45 năm. Ông kết hôn và có gia đình hạnh phúc với 5 người con. Đến năm 1934, ông nghỉ biểu diễn và qua đời sau một cơn đau tim khi 63 tuổi.

Thứ Hai, 8 tháng 12, 2014

Tiết lộ chuyện ăn uống phức tạp của các trùm phát xít

Adolf Hitler và Benito Mussolini, hai nhà độc tài phát xít khét tiếng nhất thế kỷ 20, đều tuân thủ một chế độ kiểm soát ẩm thực nghiêm ngặt.

Adolf Hitler và Benito Mussolini, hai nhà độc tài phát xít khét tiếng nhất thế kỷ 20, đều tuân thủ một chế độ kiểm soát ẩm thực nghiêm ngặt. Ở đây chúng ta không xem xét tới vấn đề là liệu chế độ ăn này có ảnh hưởng phần nào tới các tội ác đối với loài người mà của chúng hay không, mà chỉ đề cập thuần túy tới góc độ phản ánh tính cách con người. Bởi ranh giới giữa một người bình thường và 'quái vật' là rất mỏng manh.


'

Cả Adolf Hitler và Benito Mussolini đều bị stress do phải đảm nhận các chức trách nặng nề khiến hệ thống tiêu hóa phải chịu những tổn thương lớn.

Hitler bị bệnh đầy bụng kinh niên nên đã chuyển qua ăn chay. Kì quặc hơn nữa là thày lang băm tên là Theodore Morrell, được sự cho phép của Quốc trưởng, đã điều chế cho ông ta 28 loại thuốc khác nhau. Thậm chí trong đó có một loại thuốc được bào chế từ... chiết xuất chất thải của nông dân Bulgaria.

Là một người ăn chay theo trường phái Phúc Âm, Hitler thường vừa ăn món chay của mình vừa nói chuyện phiếm về các tin tức đang diễn ra tại “lò sát sinh” Ukraine, một chủ đề ghê tởm đến nỗi những người khách ăn mặn ngồi cùng bàn không thể nuốt trôi bữa ăn của họ.

Là người có khẩu vị độc nhất vô nhị và bạo chúa hoang tưởng nhất, Hitler luôn có một đội ngũ 15 nữ ẩm thực (người nếm thức ăn) phục vụ trong suốt những năm chiến tranh - Không có món ăn nào có thể được chuyển tới bàn của hắn khi chưa được kiểm chứng bằng sự khỏe mạnh của các cô gái 45 phút sau khi nếm.


Bản thân Mussolini thì bị một bác sĩ của Đức quốc xã chuẩn đoán là mắc bệnh táo bón nghiêm trọng vào khoảng thời gian giữa Đệ nhị thế chiến.

Nhưng kết cục, không có bất kì biện pháp nào ở trên – chế độ ăn uống, thày thuốc, kiểm soát nghiêm ngặt – có thể cứu giúp chúng thoát tội chết. Cả hai đều có cái chết dữ dội.

Bí ẩn bản khắc giả kim thuật biến kim loại thành vàng

Hermes Trismegistus tạo ra bản khắc về giả kim thuật có tên The Emerald Tablet nhưng cho đến nay chưa có ai có thể biến kim loại thành vàng.

Nhà truyền thuyết về thuật giả kim Hermes Trismegistus đã tạo ra bản khắc The Emerald Tablet. Bản khắc này được viết trên phiến đá màu xanh hoặc ngọc lục bảo, mô tả đầy đủ 13 hướng dẫn, giải thích bản chất và nguồn gốc của vũ trụ cũng như vai trò của con người trong sự kết hợp giữa yếu tố vi mô và vĩ mô. Cụ thể, trong đó viết về các phương pháp biến kim loại thành vàng cũng như bào chế được thuốc trường sinh bất tử.

Theo một số truyền thuyết, bản khắc The Emerald Tablet được tìm thấy bên dưới bức tượng trong ngôi mộ của Hermes ở Tyana. Các chuyên gia cho hay đây là một trong những bản khắc chính thức về thuật giả kim lâu đời nhất thế giới khi xuất hiện từ những năm 650 – 830 sau Công nguyên.


Cho đến nay, giới chuyên gia vẫn chưa giải mã hoàn toàn được bí ẩn về bản khắc cổ The Emerald Tablet.

Tài liệu đầu tiên đề cập đến bản khắc The Emerald Tablet nằm trong một cuốn sách cổ Ả rập có từ thế kỷ thứ 6 - 8. Theo các bản dịch tiếng Ả Rập đầu tiên, bản khắc cổ nói về thuật giả kim trên có xuất xứ từ Syria vào thời cổ đại. 

Đến thế kỷ 12, bản khắc trên được Hugo von Santalla dịch sang tiếng Latin. Theo thời gian, bản khắc trên dần trở thành một trong những tài liệu quan trọng về thuật giả kim ở phương Tây và có ảnh hưởng lớn trong xã hội thời Trung Cổ, Phục hưng.

Các chuyên gia đã tìm được một bản dịch The Emerald Tablet của Isaac Newton trong số những tài liệu nghiên cứu về thuật giả kim của ông. Hiện bản dịch này đang được lưu giữ tại Đại học Cambridge. Ngoài ra, một số bản dịch khác về bản khắc trên gây được sự chú ý, đánh giá cao như của Roger Bacon, Albertus Magnus, John Dee và Aleister Crowley.

Việc giải mã bí mật đằng sau bản khắc cổ The Emerald Tablet không phải là vấn đề đơn giản do chưa có ai có thể biến kim loại thành vàng dựa trên những hướng dẫn trong tài liệu cổ xưa trên. Tuy nhiên, bản khắc trên được đánh giá là có ý nghĩa quan trọng trong lĩnh vực triết học.

Thứ Sáu, 5 tháng 12, 2014

Giải mã tính cách con người qua giấc mơ kỳ dị

Theo kết quả nghiên cứu mới gây tranh cãi, những người nằm mơ thấy bản thân giết người thường sống hướng nội, dễ trở nên hung hăng...

Các nhà nghiên cứu còn cho biết thêm, những người nằm mơ thấy bản thân giết người thường là người sống hướng nội, không thân thiện hay dữ dằn với người khác khi tỉnh.


Giáo sư Michael Shredl và đồng nghiệp công tác tại Viện Sức khỏe Tâm thần Trung Ương ở thành phố Mannheim, Tây Nam nước Đức đã đưa ra kết quả nghiên cứu trên sau khi phân tích về tính cách của 443 sinh viên và khảo sát về giấc mơ của họ.

Bình quân các sinh viên nhớ lại được từ 2 đến 3 giấc mơ mỗi tuần. Trong số đó, 19% hay nằm mơ thấy mình giết người và đa số là nam giới. Giáo sư Michael cho rằng giấc mơ là sự mở rộng hơn những sự kiện trong đời thực. Những người mơ thấy bản thân giết người thường là người hướng nội, khó hòa đồng, dễ có thái độ thù địch và hung hăng với những người xung quanh. Cảm xúc của họ thường bị kìm nén khi hoàn toàn tỉnh táo nên đã bộc lộ hành động giết ai đó trong giấc mơ.

Ông Schredl cho biết trong tương lai sẽ tiến hành nghiên cứu, điều tra những người tham gia về hoàn cảnh diễn ra các vụ giết người trong mơ của họ. Đó có thể là hành động tự vệ, một tai nạn hay là kẻ giết người máu lạnh.



Theo kết quả nghiên cứu mới của nhóm nghiên cứu người Đức, những người nằm mơ thấy giết ai đó thường sống hướng nội và đa số là nam giới.

Tuy nhiên, một số chuyên gia không đồng ý với kết quả nghiên cứu trên. Giáo sư William Domhoff tại Đại học California, Santa Cruz ở Mỹ cho rằng những câu hỏi mà nhóm nghiên cứu đặt ra với các đối tượng khi họ thức không phản ánh đúng nội dung giấc mơ của họ. Thay vào đó, những câu hỏi có xu hướng phản ánh khiến những người tham gia nghiên cứu cố nhớ lại bản thân đã nằm mơ thấy điều gì.

Giáo sư William Domhoff cũng cho rằng tỉ lệ người mơ thấy bản thân giết người lên đến 19% là quá cao. Ông cũng cho biết hầu hết mọi người chỉ nhớ mơ hồ những điều đã làm trong lúc chiêm bao. Rất ít người có thể nhớ lại một cách chính xác nội dung giấc mơ của bản thân. Thêm vào đó, hầu hết mọi người có xu hướng nhớ những sự kiện bất thường và không nhớ đến những điều bình thường.

Thứ Tư, 3 tháng 12, 2014

Phát hiện mới về cỗ máy tính cổ nhất thế giới

Giới nghiên cứu cho hay chiếc máy tính lâu đời nhất thế giới có từ năm 100 - 150 TCN, sớm hơn 100 năm so với suy đoán trước đây. 

Theo các nhà nghiên cứu Argentina, căn cứ vào những mảnh vụn đồng bị hoen rỉ từ cỗ máy tính cổ Antilythera có từ năm 100 - 150 TCN, sớm hơn 100 năm so với dự đoán trước đây. Đến 1.500 năm sau, loài người mới sáng tạo ra được một chiếc máy phục vụ cho hoạt động chiêm tinh có mức độ phức tạp tương đương chiếc máy tính cổ này.

Trước đó, giới chuyên gia suy đoán, cỗ máy tính cổ trên có vào khoảng năm 250 TCN. Theo đó, cỗ máy này từng tính toán ra nhật thực sẽ xảy ra vào ngày 12/5 năm 205 TCN.



Theo kết quả nghiên cứu mới công bố, Antilythera có "tuổi thọ" lâu đời hơn so với suy đoán trước đây.

Chiếc máy tính cổ Antilythera có cơ chế hoạt động phức tạp, được sử dụng để theo dõi chu kỳ của hệ mặt trời. Năm 1990, cổ vật này được các chuyên gia phát hiện từ mảnh vỡ của xác tàu đắm La Mã ở ngoài khơi gần đảo Antikythera, Hy Lạp.


Vào năm 2008, Antilythera được cho là dùng để dự đoán nhật thực, ghi lại những sự kiện quan trọng trong lịch sử Hy Lạp cũng như đại hội thể thao Olympic. Thông qua kiểm tra cỗ máy này, các chuyên gia phát hiện ban đầu Antilythera có cả hướng dẫn sử dụng. Thiết bị này có thể theo dõi các chuyển động của sao Thủy, sao Kim, sao Hỏa, sao Mộc, sao Thổ hay vị trí của Mặt trời, Mặt trăng.

Thứ Ba, 2 tháng 12, 2014

Phận thảm hạm đội chở kho báu của Tây Ban Nha

Năm 1715, do gặp mưa bão nên hạm đội gồm 11 tàu chở kho báu của Tây Ban Nha trị giá khoảng 2 tỷ USD đã chìm ở Florida,Mỹ.

Vào năm 1712, người Tây Ban Nha đã huy động một hạm đội tàu lớn để chở kho báu mà quốc gia này có được từ Thế giới mới về nước. Ngay từ thế kỷ 16 - 18, các hạm đội tàu mạnh của một số cường quốc thường di chuyển dọc khu vực biển giữa Tây Ban Nha và châu Mỹ nhằm chuyển số của cải giá trị về nước. Tới năm 1715, họ đã xây dựng được hạm đội gồm 11 tàu. Mỗi chiếc tàu đều chở đầy vàng, bạc, ngọc trai, các loại đá quý, gia vị và cả bột chàm.

Do phải đối mặt với nạn cướp biển nên các hạm đội tàu chở số của cải trên được trang bị nhiều loại vũ khí và binh sĩ để đưa số châu báu về nước an toàn. Tuy nhiên, họ không thể chống chọi được trận bão biển lớn, khiến 11 con tàu trên chìm xuống đáy biển. Theo ước tính, số của cải chìm xuống đáy biển Florida, Mỹ trị giá khoảng 2 tỉ USD.


Cho đến nay, giới chuyên gia vẫn chưa từ bỏ hy vọng tìm thấy số kho báu của hạm đội Tây Ban Nha bị đại dương "nuốt chửng" năm 1715. 
 
Theo kế hoạch, hạm đội tàu hùng hậu của Tây Ban Nha trên sẽ bắt đầu hành trình trở về nước trước khi mùa mưa bão đến. Tuy nhiên, sau 6 ngày khởi hành, hạm đội tàu của Tây Ban Nha gặp phải thảm họa thiên nhiên trên khiến hàng nghìn thủy thủ thiệt mạng và toàn bộ số của cải mang theo chìm sâu xuống đáy đại dương sâu thẳm.

Kể từ khi gặp nạn cho đến nay, các chuyên gia đã tìm thấy 7 trong số 11 con tàu chở kho báu trị giá khoảng 2 tỉ USD. Tuy nhiên, họ chỉ tìm thấy một lượng rất nhỏ kho báu trên những chiếc tàu đó. Trong số đó có con tàu Urca de Lima ở ngoài khơi bờ biển Florida. Việc phát hiện những xác tàu chở đầy châu báu trên giúp các chuyên gia tìm hiểu lịch sử hàng hải của các cường quốc biển ở châu Mỹ.


Do chưa tìm thấy toàn bộ số kho báu bị mất, các chuyên gia, nhà thám hiểm, các thợ săn tìm kho báu vẫn cố gắng truy tìm tung tích con tàu San Miguel. Đây là con tàu được cho là chở nhiều vàng bạc, đá quý... nhất trong hạm đội của Tây Ban Nha năm 1715.

Thứ Năm, 27 tháng 11, 2014

Bí ẩn những câu thần chú của người Ai Cập cổ đại

Những câu thần chú của người Ai Cập cổ đại trong cuốn "Sổ tay Sức mạnh Nghi thức" vừa được các nhà khoa học Australia giải mã thành công.


Các nhà khoa học Australia vừa giải mã thành công một cuốn sổ tay có ghi những câu thần chú của người Ai Cập cổ đại. "Sổ tay Sức mạnh Nghi thức" (The Handbook of Ritual Power), là tên mà các nhà nghiên cứu đặt cho cuốn sổ này có ghi lại những câu thần chú tình yêu, cách thanh tẩy những linh hồn tà ác và chữa trị bệnh trùng xoắn móc câu - một căn bệnh nhiễm trùng quái ác vẫn còn tồn tại đến ngày nay.

Theo trang Live Science, các câu thần chú trong cuốn sổ được viết bằng tiếng Coptic, ngôn ngữ của giáo hội Ai Cập và bản thân cuốn sổ được đóng từ giấy giả da.

Cuốn sổ đã có tuổi thọ khoảng 1.300 năm và được Đại học Macquarie mua lại năm 1981 từ tay buôn đồ cổ Michael Fackelmann.

Tuy nhiên, không ai biết Fackelmann có được cuốn sổ này từ đâu. Hai nhà nghiên cứu Malcolm Choat và Iain Gardner nhận định: "Phương ngữ trong cuốn sổ cho thấy nguồn gốc của nó có thể là từ vùng Thượng Ai Cập, trong phạm vi thành phố cổ Ashmunein, hay còn gọi là Hermopolis."

Cuốn sổ mở đầu bằng một đoạn dài những lời khấn, được minh họa bằng những hình vẽ và "những lời mang sức mạnh."

Cuốn sổ có ghi lại những câu thần chú của người Ai Cập cổ đại. Nguồn: ibtimes. 


Sau đó, cuốn sổ ghi lại những phương thức hoặc thần chú để chữa cho những người bị ma quỷ ám cùng nhiều loại bệnh tật khác, hoặc mang đến may mắn và thành công trong tình yêu hay kinh doanh.

Cuốn sổ 20 trang này còn ghi lại một câu thần chú có khả năng khống chế người khác. Để làm được điều này, người niệm chú phải đọc thần chú trước hai cây đinh rồi đóng chúng lên cái chặn cửa của mình, một cái ở bên phải và cái kia ở bên trái.

Vào thời điểm cuốn sổ được viết, đạo Thiên Chúa đã du nhập vào Ai Cập, do đó trong sổ cũng có một số ghi chép liên quan tới Chúa.

Tuy nhiên, cuốn sổ cũng nói tới những người Sethian, một nhóm người thờ phụng Seth, người con trai thứ ba của Adam và Eve.


Những người đứng đầu nhà thờ coi Sethian là những kẻ dị giáo và họ đã bị xóa sổ tại thời điểm cuốn sổ được viết.

Các nhà khoa học tin rằng cuốn sổ đã được tạo ra trước khi tất cả những câu thần chú của người Sethian bị loại bỏ.

Họ tin rằng những câu thần chú này xuất phát từ những cuốn sách riêng biệt, sau đó mới được tập hợp lại để tạo ra "công cụ duy nhất của sức mạnh nghi thức".

Khi được hỏi ai có thể đã sử dụng cuốn sổ này, Choat nhận định: "Tôi cảm thấy có thể có những người khác không thuộc giới tăng lữ hay thầy tu cũng sử dụng cuốn sổ, nhưng chính xác họ là ai vẫn còn là một bí ẩn, vì mọi người thực sự không muốn bị coi là "thầy phù thủy".

Thứ Tư, 26 tháng 11, 2014

Chi tiết ít biết về vụ "chạm trán" UFO ở Roswell 1947

Trong bản di chúc, Trung úy Walter Haut tiết lộ quân đội Mỹ đã bắt được UFO và tìm thấy thi thể người ngoài hành tinh.

Vào mùa hè năm 1947, Trung úy Walter Haut thuộc Đội tình báo 509 của Trung đoàn không quân hỗn hợp số 8 đã viết thông cáo báo chí gây chấn động dư luận thế giới đó là việc bắt được một đĩa bay tại New Mexico gần Roswell, Mỹ.


Cụ thể, vào ngày 8/7/1947, Tổng tư lệnh Căn cứ không quân Fort Worth đã chỉ đạo cho Trung úy Walter Haut viết bản thông cáo trên. Họ đã tuyên bố quân đội Mỹ có trong tay một đĩa bay. Tuy nhiên, chưa đầy một ngày sau khi ra thông cáo báo chí chấn động dư luận thế giới trên, quân đội Mỹ đã ra thông báo đính chính thông cáo trên là một sự nhầm lẫn.

Khi đó, Trung úy Walter Haut cho biết quân đội Mỹ có sự nhầm lẫn tai hại như trên là do quả cầu khí tượng bằng nhôm và gỗ balsa. Trước lời giải thích đó, dư luận thế giới đã chỉ trích dữ dội của các phương tiện truyền thông.



Tuy nhiên, vào đầu những năm 1990, sau khi về hưu, Trung úy Walter đã thay đổi câu chuyện rùm beng xã hội năm xưa. Trong 15 năm cuối đời, ông Walter tuyên bố bản thân đã tận mắt chứng kiến đĩa bay thật và người ngoài hành tinh ở Roswell.

Năm 2002, ông Walter đã viết một bản di chúc, trong đó miêu tả lại việc nhìn thấy người ngoài hành tinh cũng như những chi tiết về UFO, thi thể sinh vật ngoài trái đất. Ông đã miêu tả tận mắt nhìn thấy chiếc đĩa bay đã sứt mẻ nhiều chỗ. Nó là một vật thể bằng kim loại có hình tròn như quả trứng, dài khoảng 3,6 - 4,5m, rộng khoảng 1,8m, không cửa sổ, không đuôi máy, không cánh, thậm chí không có thiết bị tiếp đất... bao gồm chi tiết về các UFO và các cơ quan ngoài trái đất. 

Ông Walter còn nhìn thấy 2 thi thể nằm trên mặt đất được phủ tấm vải dầu, chiều dài khoảng 1,2m nổi bật với cái đầu rất lớn. tuyên bố đã chứng kiến một nghề hình quả trứng và một số người ngoài hành tinh đã chết với người đứng đầu kéo dài.

Mãi đến năm 2007, 1 năm sau khi ông qua đời, bản di chúc của ông mới được công bố theo lời dặn dò của Trung úy Walter Haut. Những thông tin gây sốc trên được công bố trong cuốn sách "Witness to Roswell: Unmasking the 60 Year Cover-Up". Cuốn sách cũng cho độc giả biết rằng có thể ông Walter giữ bí mật trên trong suốt nhiều năm là do tôn trọng Fort Worth. Cho đến nay, bản di chúc của ông vẫn không đủ sức thuyết phục tất cả mọi người, đặc biệt là những người theo chủ nghĩa hoài nghi do không có bằng chứng chứng minh về người ngoài tinh và UFO xuất hiện tại Roswell năm 1947.

Thứ Ba, 25 tháng 11, 2014

Toàn cảnh trận hải chiến lớn nhất CTTG 2

9 hạm đội tàu sân bay, 867 tàu chiến, 1.800 máy bay được huy động trong trận chiến vịnh Leyte, một trong những trận hải chiến lớn nhất TG.

Từ tháng 8/1942 đến đầu năm 1944, các chiến dịch của hải quân Mỹ đã đánh bật lực lượng Nhật Bản ra khỏi các hòn đảo ở phía Nam và trung tâm Thái Bình Dương. Giữa năm 1944, hải quân Mỹ đã chiếm được một số đảo quan trọng làm căn cứ cho máy bay ném bom B-29 xuất phát tấn công các đảo chính của Nhật Bản.



867 tàu chiến đã được huy động trong trận hải chiến lớn nhất lịch sử tại vịnh Leyte. Ảnh: Wikipedia.
Sau khi xem xét các yếu tố chiến lược, hải quân Mỹ quyết định mở cuộc tấn công vào Philippines nhằm cắt đứt tuyến vận tải biển chiến lược của Nhật Bản qua vịnh Leyte. Việc đánh bật lực lượng Nhật Bản tại đây sẽ là chìa khóa để cô lập các quốc gia mà Nhật chiếm đóng và cắt huyết mạch của nền công nghiệp quốc phòng xứ sở mặt trời mọc.

Để phục vụ cho cuộc tấn công vào Philippines, hải quân Mỹ đã huy động hạm đội 3 và hạm đội 7. Hạm đội 7 do Phó đô đốc Thomas C. Kinkaid chỉ huy chịu trách nhiệm đổ bộ và chi viện hỏa lực gần bờ cho lực lượng lục quân của tướng MacArthur đánh chiếm miền trung Philippines. Hạm đội 7 có sự hỗ trợ của một số tàu chiến của hải quân Hoàng gia Australia.

Hạm đội 3 do Đô đốc William F. Halsey, Jr chỉ huy phối hợp với Lực lượng đặc nhiệm 38 (TF-38) hạm đội Thái Bình Dương hỗ trợ hỏa lực từ xa và ngăn chặn hải quân Nhật Bản. Lỗi khá nghiêm trọng trong chiến dịch là không có tổng chỉ huy chung. Hạm đội 7 chịu sự chỉ huy của tướng MacArthur, Tư lệnh lực lượng đồng minh ở tây nam Thái Bình Dương.


Thủy thủ đoàn trên tàu sân bay Zuikaku thực hiện nghi lễ chào cờ cuối cùng sau khi nó bị trúng đạn nghiêng hẳn sang một bên và nhanh chóng chìm sau đó. Ảnh: Wikipedia. 


Hạm đội 3 dưới sự chỉ huy của Đô đốc Chester W. Nimitz, Tổng tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương. Việc thiếu tổng chỉ huy làm cho sự phối hợp giữa các lực lượng không đồng nhất, khiến hải quân Mỹ phải chịu tổn thất nặng gần mức thảm họa.

Về lực lượng, hải quân Mỹ đã huy động 8 hạm đội tàu sân bay, 8 tàu sân bay hạng nhẹ, 18 tàu hộ tống, 12 thiết giáp hạm, 24 tuần dương hạm, 166 tàu khu trục và hơn 1.500 máy bay chiến đấu. Tổng số tàu chiến các loại lên đến 800 chiếc.

Về phía Nhật Bản, nhận thức rõ vai trò chiến lược của Philippines đối với cuộc chiến, hạm đội Liên hợp Nhật Bản đã huy động gần như toàn bộ lực lượng để bảo vệ Philippines trước cuộc tấn công của lực lượng đồng minh. Tư lệnh hạm đội Liên hợp Soemu Toyoda đã lên 4 kế hoạch chiến thắng còn gọi là Shō-Gō từ 1 đến 4.

Lực lượng gồm có 3 hạm đội tàu sân bay, 3 tàu sân bay hạng nhẹ, 9 thiết giáp hạm-trong đó có thiết giáp hạm Yamato tàu chiến mạnh nhất thế giới lúc đó, 14 tàu tuần dương hạng nặng, 6 tuần dương hạm hạng nhẹ, 35 tàu khu trục, 300 máy bay các loại. Tổng số tàu chiến các loại gần 70 chiếc.
Trận hải chiến lớn nhất lịch sử



Thiết giáp hạm Yamato tàu chiến mạnh nhất của hải quân Nhật Bản bị trúng bom ở tháp pháo phía trước vào ngày 24/10/1944 tại trận đánh biển Sibuyan. Ảnh: Wikipedia. 


Ngày 12/10/1944, hạm đội 3 tấn công các sân bay ở đảo Đài Loan và quần đảo Ryukyu nhằm tiêu diệt lực lượng không quân Nhật Bản tại đây, dọn đường cho cuộc đổ bộ vào Leyte. Bộ Tư lệnh hạm đội Liên hợp phát động chiến dịch Shō-Gō-2 tấn công vào hạm đội 3 song đã bị đánh bại. Nhật Bản lập tức chuyển sang Shō-Gō-1, Phó đô đốc Jisaburō Ozawa chỉ huy mũi tấn công phía Bắc làm nhiệm vụ thu hút lực lượng Mỹ ra khỏi vịnh Leyte.

Mũi tấn công này sẽ làm nhiệm vụ mồi nhử trong khi đó hai mũi tấn công phía Nam do Phó đô đốc Shoji Nishimura chỉ huy tấn công vào khu vực eo biển Surigao. Mũi tấn công trung tâm do Phó đô đốc Takeo Kurita chỉ huy tấn công qua eo biển San Bernardino. Các chỉ huy hải quân Nhật Bản cho rằng, kế hoạch tấn công này quá liều lĩnh và có thể dẫn đến sự hủy diệt của toàn bộ lực lượng tấn công. Tư lệnh Toyoda giải thích rằng, nếu không thể giữ được Philippines thì việc bảo toàn lực lượng chiến đấu của các hạm đội sẽ trở nên vô nghĩa. Trận hải chiến vịnh Leyte bao gồm 4 trận đánh tại biển Sibuyan, biển Surigao, Cape Engaño và Samar. Trong trận hải chiến này, lần đầu các máy bay chiến đấu Nhật Bản thực hiện tấn công cảm tử “kamikaze” một cách có tổ chức.

Ngày 20/10/1944, hải quân Mỹ bắt đầu tấn công Leyte. Cuộc chạm trán giữa hải quân đôi bên lên đến đỉnh điểm của sự ác liệt với quy mô chưa từng có kéo dài từ ngày 23-26/10/1944. Trận hải chiến vịnh Leyte đã trở thành trận đánh hải quân lớn nhất chiến tranh thế giới thứ 2 cũng như trong lịch sử hải chiến của nhân loại. Với sức mạnh áp đảo, hải quân Mỹ nhanh chóng đánh bại hạm đội Liên hợp Nhật Bản. Thất bại tại vịnh Leyte đã khiến hải quân Nhật Bản gần như bị tê liệt hoàn toàn. Số tàu chiến còn lại dần mất sức chiến đấu do không được cung cấp đầy đủ nhiên liệu và đạn dược. Huyết mạch nền công nghiệp quốc phòng Nhật Bản từ phía Nam bị cắt đứt hoàn toàn.

Thiệt hại của đôi bên

Tàu hộ tống sân bay USS- St.Lo(CVE-63) phát nổ sau một đợt tấn công cảm tử của máy bay Nhật Bản. Ảnh: Wikipedia. 



Hải quân Mỹ có lực lượng tàu chiến gấp 11,4 lần, số máy bay gấp 2,5 lần, nhưng cũng phải chịu tổn thất không hề nhỏ. 1 tàu sân bay hạng nhẹ, 2 tàu hộ tống sân bay, 2 tàu khu trục, 1 tàu khu trục hộ tống bị đánh chìm, 4 tàu chiến khác của Mỹ và Australia bị hư hỏng nặng, 200 máy bay bị bắn hạ, hơn 2.800 người thiệt mạng và bị thương. Về phía Nhật Bản, 1 tàu sân bay, 3 tàu sân bay hạng nhẹ, 3 thiết giáp hạm, 10 tàu tuần dương, 11 tàu khu trục bị đánh chìm, 300 máy bay bị bắn rơi, 12.500 người thiệt mạng hoặc bị thương.

Thiệt hại quá lớn tại trận Leyte cùng với sự sụt giảm nghiêm trọng về sản xuất quốc phòng do thiếu nguyên liệu sản xuất dẫn đến hạm đội Liên hợp Nhật Bản và quân đội Nhật Bản dần mất sức chiến đấu rồi bị đánh bại hoàn toàn.

Thứ Hai, 24 tháng 11, 2014

Phát hiện mới về sự sống đầu tiên ở Tây Tạng

Trong nghiên cứu mới nhất, giới khoa học phát hiện rằng con người dường như đã chuyển đến sinh sống tại cao nguyên Tây Tạng cách đây 3.600 năm.

Theo công trình nghiên cứu đăng trên tạp chí Khoa học Mỹ số ra ngày 21/11, nhóm nhà khoa học từ các trường đại học của Anh, Mỹ và Trung Quốc đã tiến hành phân tích các mẫu trầm tích thực vật và xương, răng của lợn, cừu thu thập được từ 53 địa điểm ở cao nguyên Tây Tạng. Kết quả phân tích cho thấy có rất nhiều loài cây và vật nuôi đã sinh sống tại đây, chứng tỏ loài người đã định cư lâu dài ở vùng đất có vị trí cách mặt nước biển tới 3.400 m này.

Nhóm tác giả giải thích rằng những người sinh sống ở cao nguyên Tây Tạng đã duy trì cuộc sống bằng cách nhập lúa mỳ và lúa mạch từ vùng đất có tên "Trăng lưỡi liềm màu mỡ" ở Trung Đông. Ngoài ra, các nhà khoa học cũng phát hiện mẫu trầm tích của các giống cây ghép từ Trung Quốc như cây cao lương hay kê đuôi chồn.


Ảnh minh họa. 

Người đứng đầu nhóm nghiên cứu, ông Martin Jones, cho biết phát hiện mới này đặt ra nhiều câu hỏi lý thú về sự thích nghi của con người, cây trồng và vật nuôi khi phải sống trong điều kiện lạnh giá ở nơi được mệnh danh là "nóc nhà thế giới". Theo các nhà khoa học, ban đầu con người chỉ đến săn bắn tại cao nguyên Tây Tạng nhưng sau do phát hiện được những cây trồng sinh sống được ở vùng đất này nên họ đã quyết định đến định cư. Nghiên cứu cho thấy cách đây 20.000 năm đã có những người đầu tiên đến sống tại cao nguyên Tây Tạng, nhưng cuộc sống du cư chỉ bắt đầu từ cách đây 5.200 năm và định cư từ cách đây 3.600 năm.


Cho đến nay, giới nghiên cứu biết rất ít về sự sống xưa kia của con người trên các cao nguyên do chưa có đủ dữ liệu khảo cổ.

Trưởng nhóm nghiên cứu hy vọng những phát hiện mới này sẽ là tiền đề cho những nghiên cứu tiếp theo liên quan đến gen quy định chứng sợ độ cao ở người, cũng như sự thích ứng của các tộc người thiểu số và một số loài cây sinh trưởng ở vùng cao. Ngoài ra, nghiên cứu còn có ý nghĩa trong việc tìm hướng đảm bảo an ninh lương thực trong tương lai khi hầu hết các giống lương thực hiện nay đều được trồng tại các vùng đồng bằng.

Vì sao người luyện võ rất sợ tẩu hỏa nhập ma?

Tẩu hỏa nhập ma có thật hay không và sự thực nó là thế nào mà luôn khiến những người luyện võ, nhất là luyện nội công sợ hãi. 

Người tập võ thuật phần nhiều biết câu: “Luyện quyền chẳng luyện công, về già cũng như không”. Công ở đây tức là luyện nội công. Người luyện võ thuật chỉ biết động tác bài vở mà không có nội công thì chỉ có bề nổi mà không có bề sâu, đến khi về già sức khỏe suy yếu thì võ thuật cũng không dùng được nữa.

Về luyện nội công, có nhiều trường phái khác nhau để luyện nhưng tựu chung, đã nói đến luyện công là nói đến việc hít thở điều khí. Luyện công có khi là động luyện nghĩa là vận động kết hợp với hít thở, có khi là tĩnh luyện (ngồi yên lặng chỉ tập trung vào việc hít thở). Trong hai trường hợp vừa kể, tẩu hỏa nhập ma thường xảy ra với người tĩnh luyện.

Trong khi tập nội công tĩnh luyện, chỉ một giây phân tâm có thể bị tẩu hỏa nhập ma. Ảnh minh họa.

Theo cách định nghĩa của Wikipedia, tẩu hỏa nhập ma là hiện tượng tâm thần hoang tưởng dần dần sẽ trở nên điên dại, đồng thời sức khỏe sẽ giảm sút do luyện tập sai phương pháp khoa học.

Trong các truyện kiếm hiệp, tẩu hỏa nhập ma là trạng thái mà người tu luyện võ học không theo đúng phương pháp làm cho kinh mạch đảo lộn, máu huyết chảy ngược. Đa phần họ sẽ bị mất hết võ công và trở nên điên dại hoặc thổ huyết tử vong.

Cũng chính vì truyện và phim kiếm hiệp, từ tẩu hỏa nhập ma được nhiều người biết. Tuy nhiên, phần đông người ta hiểu chưa đầy đủ về tình trạng này.

Một tài liệu khác là cuốn sách Võ thuật Trung Quốc do Nxb Tổng hợp TPHCM biên dịch và phát hành, cũng đề cập đến tình trạng tẩu hỏa nhập ma. Cuốn sách cho biết: “Khi tập luyện nội công, ngoài việc tập trung tinh thần còn đòi hỏi phải có môi trường xung quanh thoáng đãng thanh tịnh. Nếu khi đang vận động mà bị những hoàn cảnh đột ngột gây sợ hãi, sẽ dễ xảy ra tình trạng chân khí bị tán loạn kinh lộ, người bị nhẹ sẽ ảnh hưởng đến việc luyện công, còn người bị nặng có thể dẫn đến tinh thần hoảng loạn hoặc một bộ phận nào đó của cơ thể bị tê liệt, đó chính là khái niệm “tẩu hỏa nhập ma” mà người ta hay nhắc tới.

Chính vì vậy, những lúc luyện lực chìm và lực biến hóa, nếu phương pháp luyện công không hợp lý hoặc gặp phải những trường hợp bất ngờ ngoài ý muốn, thì hậu quả để lại phần nhiều đều là nội thương”.

Như vậy, rất rõ ràng, tẩu hỏa nhập ma là một trạng thái có thực trong quá trình một người rèn luyện nội công. Nói nôm na, nó do sự sai lầm trong phương pháp luyện tập dẫn đến những biến loạn trong cơ thể hoặc do bị giật mình trong khi đang tĩnh tọa tập trung vận hành chân khí khiến khí tán loạn không kiểm soát được gây hại cho cơ thể.

Cũng cần nói thêm rằng, trong khi tĩnh tọa luyện nội công, mặc dù thể trạng bên ngoài là tĩnh nhưng bên trong lại là động vì người ta phải tập trung tư tưởng để dẫn khí đi theo các kinh mạch rất phức tạp ở trong cơ thể. Trong tình huống đó, mọi sự phân tâm do yếu tố bên trong hay bên ngoài đều có thể khiến quá trình điều khí gặp rắc rối và sinh ra tác hại.

Bởi thế, những người ham mê môn nội công nếu không có người thày đã thành tựu nội công chỉ dạy thì chớ nên tập bừa theo các cuốn sách quá giản lược bán đầy ngoài vỉa hè. Bởi lẽ tập mò như thế dễ sai lầm. Nhẹ thì mất thì giờ tập luyện vô ích, nặng thì có thể chuốc lấy những tổn thương cho mình.

Thứ Sáu, 21 tháng 11, 2014

“Những con én đêm” huyền thoại của không quân Xô Viết

Vừa khiếp sợ vừa khâm phục, quân Đức đã phong biệt danh cho phi đội của Nadezda là “những mụ phù thủy bóng đêm”.

Trong cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô, có 3 trung đoàn Không quân của phái đẹp, trong đó có Trung đoàn không quân Cận vệ số 46, thuộc Quân đoàn Không quân số 4 ở Mặt trận Belarus-2 là Trung đoàn ném bom ban đêm do Anh hùng Liên Xô, Đại úy Nadezda Popova làm Phi đội phó. Trung đoàn của nữ anh hùng Nadezda từng gây mất ăn mất ngủ cho quân Đức.

Vừa khiếp sợ vừa khâm phục, quân Đức đã phong biệt danh cho phi đội của Nadezda là “những mụ phù thủy bóng đêm”. Còn các nam phi công Liên Xô lại trìu mến gọi phi đội này là “những con én đêm” vì “những con én” đó đã biết bay đến mục tiêu của địch một cách nhanh chóng, bí mật và ném bom rồi lặng lẽ bay đi. Tờ báo của Anh The Daily Telegraph đã đăng một bài về Nadezda và về phi đội của bà.

Trung đoàn nữ không quân này được cung cấp và trang bị rất sơ sài. Các nữ phi công được cấp quân phục mùa hè của nam giới. Họ được trang bị những máy bay PO-2 là loại máy bay sản xuất trong thập niên 1920. Đây là loại máy bay cánh kép có thân làm bằng gỗ dán, được phủ một lớp vải ở trên. Các thiết bị trong máy bay đều là những loại cổ lỗ nhất, không có thiết bị liên lạc vô tuyến, phải dùng đồng hồ bấm giây và bản đồ để làm thiết bị dẫn đường, không được trang bị vũ khí và dù.

Trên máy bay chỉ mang theo được 2 quả bom. Vì thế trong chiến đấu, các nữ phi công phải thực hiện nhiều chuyến bay, Nadezda có đêm phải thực hiện 18 chuyến bay. Họ ném bom xong và lặng lẽ trở về sân bay, tiếp tục nhận bom mới và nhanh chóng bay đến mục tiêu. Họ phải dùng dây chão để ném bom. Mục tiêu ném bom là các công sự quốc phòng, các căn cứ hậu cần và các kho bãi của quân đội Đức.

Cũng vì máy bay PO-2 là loại máy bay nhẹ và bay ở tầm thấp, các nữ phi công phải luôn tìm cách làm thế nào để bay qua được các radar của địch. Đó được gọi là chiến thuật của các kiều nữ "con én đêm". Họ bay cách mục tiêu của đối phương một cự ly nhất định và họ giảm âm động cơ. Khi động cơ đã được giảm âm, họ cho máy bay lượn vòng và ném bom. Sau đó mới cho động cơ hoạt động trở lại và bay về căn cứ của mình.

”Những con én đêm” thảo luận trước giờ xuất kích. 

Nadezda Popova đã thực hiện được 852 chuyến bay chiến đấu, tham gia giải phóng Kubal, Crimea, Belarus, Ba Lan và Đức. Với những chiến công đó, ngày 23/2/1945, Đại úy không quân Nadezda Popova được phong Anh hùng Liên Xô. Trong danh sách Anh hùng Liên Xô đợt đó, có cả Đại tá Semen Kharlamov, người chồng tương lai của bà.

Vào một ngày hè năm 1942, chàng phi công Semen Kharlamov được đưa vào cấp cứu ở Quân Y viện dã chiến ngoại ô thành phố Rostov. Anh được băng bó toàn thân vì bị đạn bắn vào cổ, phá mất cái mũi đẹp và cả vùng thắt lưng, mông... Chẳng ai nhận ra anh, chỉ biết rằng anh vừa thực hiện một chiến công trên trời. Máy bay của anh bị bắn cháy, nhưng anh không rời nó.

Semen được mổ xẻ "toàn diện", nhưng liều thuốc chữa trị khá đơn giản: Một cốc rượu Vodka và ý chí chiến đấu của anh - bà say sưa kể chuyện với mọi người về "mối tình đầu" của mình khi chỉ nhìn thấy được "người yêu tương lai" trong lớp băng trắng toàn thân... Về sau, bà hỏi chồng: "Sao anh mạo hiểm thế, không nhảy dù ra". Câu trả lời rất gọn: "Vì mình tiếc chiếc máy bay quá!".

Chàng sĩ quan phi công Semen Kharlamov đã trở lại đơn vị chiến đấu sau khi lành vết thương. Một hôm ông tìm thấy Nadezda Popova "trên nẻo đường chiến tranh": Đội bay của Nadezda đang thực hiện các chuyến bay chiến đấu". Một chàng thợ máy tới nói với bà: "Thưa đồng chí chỉ huy, có người đàn ông hỏi đồng chí!". Lúc đó, máy bay của bà đang chuẩn bị cất cánh. Đó là Semen, người mà trước đây bà chỉ nhìn được qua lớp băng trắng toàn thân.

Trong mấy phút trò chuyện ngắn ngủi, bà dí dỏm nói: "Vậy là người anh vẫn toàn vẹn, cái mũi vẫn còn nguyên!". Từ đó, trong cabin máy bay của Nadezda Popova luôn có rất nhiều táo do Semen ném vào, vì gần sân bay có một vườn táo. Còn "tiêu chuẩn" 100gram Vodka của bà (sau khi hoàn thành mỗi chuyến bay theo thông lệ thời đó với những "chiến binh bầu trời") thì bà nhường cho người yêu.

Nadezda Popova (bên trái) và Valetina Tereshkova vào ngày 9/5/2013, tại Moskva.

Có người hỏi ông bà về ngày cưới của họ. Bà trả lời: "Chúng tôi cho là ngày 10/5/1945. Vì ngày đó chúng tôi đã ghi tên mình cạnh nhau trên cột lớn ở cửa vào tòa nhà Quốc hội Đức: "SeMen Kharlamov, tỉnh Saratov"; "Nadezda Popova, vùng Donbass". Đó là ngày "đăng ký kết hôn" của chúng tôi" - Bà khẳng định như vậy, vì nó diễn ra sau cái ngày tràn ngập niềm vui và tự hào của nhân dân Liên Xô - Ngày chiến thắng phát xít Đức 9/5/1945.

Sau chiến tranh, với đứa con đầu đang trong bụng, bà tới phục vụ chồng ở trung đoàn không quân của ông. Semen Kharlamov tiếp tục phục vụ trong Quân chủng Không quân Xôviết với cấp hàm Thượng tướng và là cấp phó của Nguyên soái không quân Pokrykin nổi tiếng. Còn Nadezda Popova được bầu vào đại biểu Xôviết tối cao, làm việc ở Ủy ban Phụ nữ Liên Xô và Ủy ban Bảo vệ hòa bình quốc gia.

Nadezda Popova cùng chồng.


Hàng năm, cứ tới ngày 9/5, bà được con cháu và những người ngưỡng mộ "tháp tùng" ra Hồng trường của thủ đô Moskva. Đây là dịp bà được gặp lại những người bạn, người đồng chí. Trong Ngày chiến thắng phát xít Đức năm 2013, bà chụp ảnh lưu niệm với Valetina Tereshkova, Anh hùng Liên Xô, nữ phi công vũ trụ Liên Xô đầu tiên trên thế giới bay vào vũ trụ. Ngày 8/7/2013, bà Nadezda Popova đã ra đi vào cõi vĩnh hằng ở tuổi 92.

Chồng bà, Thượng tướng Semen Kharlamov qua đời từ năm 1990. Họ có một con trai, hai cháu và ba chắt. Người con trai nay đã mang quân hàm cấp tướng. Tất cả đều thành đạt và giữ được truyền thống của cha ông.

Thứ Năm, 20 tháng 11, 2014

Vanga tiết lộ quyền năng giúp mình đưa ra lời tiên tri

Qua trò chuyện với cháu gái, bà Vanga đã nói rõ những cách thức bà nhận thông tin từ các “sức mạnh siêu nhiên” để đưa ra lời tiên tri.


Bà Vanga có lẽ là nhà tiên tri nổi danh nhất trong thời cận đại. Bà đã tiên tri nhiều sự kiện chính xác. Trong số đó phải kể đến sự kiện tòa tháp đôi ở New York bị khủng bố và tàu ngầm hạt nhân Kurd của Nga bị chìm.

Năng lực tiên tri của bà Vanga xuất hiện sau một tai nạn khiến bà bị mù cả hai mắt khi còn nhỏ. Lúc sinh thời, bà Vanga nói rằng những lời tiên tri của bà đến từ các sức mạnh linh thiêng mách bảo. Tuy nhiên, người ta vẫn không rõ các thông tin bà nhận được theo cách nào. Bài phỏng vấn sau đây sẽ cung cấp nhiều chi tiết để trả lời câu hỏi đó.

Nhà tiên tri Vanga nói rằng khi một người đứng trước mặt bà, cả cuộc đời họ sẽ hiện ra như những cuốn phim ngay trước mắt bà.

Bài phỏng vấn là cuộc trò chuyện của bà Vanga với Kraximia Xtoiankova, một người cháu gái của bà. Bài phỏng vấn này được trích từ sách Những nhà tiên tri thế giới do Nxb Văn hóa-Thông tin phát hành năm 2002. Sau đây là nội dung bài phỏng vấn:

Bác ơi, bác có thấy gương mặt cụ thể của những người mà bác tiếp xúc không, bác có hình dung bức tranh chung không?

Có, bác thấy rất rõ!

Khi xảy ra một sự việc nào đó – trong hiện tại – trong quá khứ hoặc tương lai thì nó có ý nghĩa gì đối với bác không?

Những điều vớ vẩn đó chẳng có ý nghĩa gì đối với bác cả. Bác không biết loại máy thời gian là gì, nhưng cả quá khứ lẫn tương lai đều vẽ ra trước mắt bác rõ nét như nhau.

Nhà tiên tri Vanga.

Những gì bác thấy là thông tin về con người hay là chính con người đó ạ?

Cả thông tin về con người lẫn chính bản thân người đó.

Mỗi con người có “mã số”, “mật mã” riêng, mà nếu biết được thì có thể đoán được ‘đường đời” của người đó, tức là số phận của anh ta hay không?

Không trả lời

Tương lai của một người nào đó hiện lên như thế nào? Chỉ những sự kiện chính hay toàn bộ cuộc đời tuần tự diễn ra trước mắt bác? Tóm lại có giống một cuốn phim hay không?

Bác nhìn thấy cuộc đời một con người giống như một cuốn phim.

Bác có đọc được ý nghĩ không?

Có.

Ngay cả khi ở xa?

Khoảng cách chẳng có ý nghĩa gì cả.

Bác có đọc được ý nghĩ của những người nói các thứ tiếng khác nhau mà không biết tiếng Bungari hay không (Vanga không biết các thứ tiếng khác ngoài tiếng Bungari)?

Không có trở ngại nào trong ngôn ngữ cả. Khi bác nghe thấy giọng nói thì bao giờ cũng là tiếng Bungari.

Bác có “gọi” được những thông tin bác cần biết trong bất kỳ thời điểm nào không?

Được.

Sức mạnh tiên tri của bác có phụ thuộc vào tính nghiêm túc của câu hỏi đặt ra hoặc sức mạnh tư cách của người đối thoại với bác không?

Có, điều đó là quan trọng.

Vậy nó có phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe không chỉ của bác mà cả trạng thái thần kinh của người đến hỏi hay không?

Không, không phụ thuộc.

Nếu bác nhìn thấy tai họa sắp đến với một người, hoặc thậm chí thấy người đó sắp chết thì bác có thể làm một cái gì đó để tránh tai họa được không?

Không, chẳng ai có thể giúp gì được, kể cả bác.

Số phận của một người có phụ thuộc vào sức mạnh nội tâm và các khả năng sinh lý không? Có thể tác động tới số phận không?

Không thể được. Mỗi người phải đi đúng con đường của riêng mình.

Làm thế nào bác xác định được người đến với bác phiền muộn về điều gì?

Bác nghe có tiếng nói thông báo về người đó, trước mắt bác hiện lên hình ảnh về người đó, và nguyên nhân của mỗi ưu tư trở nên rõ ràng.

Thế bác có cảm giác là khả năng của bác được định từ trên không?

Có. Được định bởi những sức mạnh tối cao.

Những sức mạnh đó là gì?

Không trả lời.

Thế tín hiệu từ những sức mạnh tối cao đó thường ở những hình thức gì?

Thường là giọng nói.

Thế bác có nhìn thấy những cái mà bác gọi là sức mạnh tối cao hay không?

Có. Cũng rõ như con người nhìn thấy bóng của mình trong nước.

Chúng hình thành từ những đốm sáng trong không khí?

Đúng như vậy đấy.


Những sức mạnh đó có vật chất hóa được không, mang hình dạng con người chẳng hạn?

Không, không thế.

Nếu bác muốn liên lạc với họ, thì bác làm bất kỳ lúc nào được không? Hay họ mới là bên chủ động?

Thường thì mối liên hệ do họ chủ động. Nhưng bác có thể gọi được. Họ ở khắp nơi.

Người chết mà người ta thường hỏi bác hiện lên trước mắt bác như thế nào? Đó là một hình ảnh xác định hay là một cái gì khác?

Hiện ra hình ảnh thấy được của người chết có thể trả lời các câu hỏi. Người đó có thể đặt câu hỏi, cũng như trả lời các câu hỏi được đặt ra.

Nhân cách con người có tồn tại sau cái chết thể xác của anh ta hay không?

Có.

Nghĩa là bác coi cái chết của con người chỉ là sự ngừng tồn tại thể xác anh ta?

Đúng thế.

Con người có thể tái sinh sau cái chết thể xác hay không?

Không trả lời.

Có tồn tại một loại trí tuệ khác hoàn hảo và cao hơn trí tuệ con người không?

Có.

Thế cái siêu trí tuệ có nguồn gốc từ đâu? Nó thấm nhuần chỉ khoảng không cận Trái Đất hay toàn bộ Vũ trụ? Nó đến với chúng ta từ những nền văn minh trong quá khứ bị tuyệt diệt hay từ tương lai? Nó từ đâu tới và đang ở đâu?

Trí tuệ nó khởi đầu và kết thúc trong Vũ trụ. Nó vĩnh cửu và vô hạn. Nó là toàn năng…