Tổng số lượt xem trang

Thứ Tư, 22 tháng 1, 2014

Những vụ mất tích bí ẩn nhất trong Thế chiến II

Những năm 1939-1945, có những vụ máy bay và phi công biến mất đột ngột mà đến nay nguyên nhân vụ tai nạn vẫn còn là bí ẩn.

Phi công người Anh Amy Johnson mất tích năm 1941

Amy Johnson sinh năm 1903. Khi còn là một cô gái trẻ, Amy Johnson rất thích lái máy bay và cô đã tham gia vào câu lạc bộ hàng không London. Cùng với việc học lái, cô muốn biết cả về máy móc và đã trở thành người phụ nữ Anh đầu tiên đủ tiêu chuẩn là một kỹ sư mặt đất.

Năm 1930, Amy Johnson lại là người phụ nữ đầu tiên bay tới Úc. Tuy vậy, cô rất thất vọng vì đã không phá được kỷ lục thời điểm đó về chuyến bay do phi công Jim Mollison lập nên. Sau đó một thời gian ngắn, cô và Mothson tổ chức lễ cưới.

Amy Johnson

Trong những năm đầu thập kỷ 30, cô đã thực hiện nhiều chuyến bay đường dài trong đó có những chuyến bay tới Nhật Bản, Capetown và Mỹ. Amy Johnson thường bay một mình, thỉnh thoảng cô thực hiện một số chuyến bay cùng với chồng là Jim Mollison.

Máy bay của Amy Johnson biến mất trên biển một cách bí ẩn ngày 5/1/1941. Trong cuốn sách “Hiện tượng bí ẩn và kỳ lạ” có viết: “Trong khi đang lái một chiếc máy bay, Amy Johnson đã nhảy dù ra khỏi máy bay bên trên cửa sông Thames và biến mất trong khối nước. Khi đó, cô còn cách nơi đến 100 dặm và trễ hai tiếng đồng hồ. Các nhân chứng còn cho là họ đã thấy hai người rớt xuống làn sóng nước”.

Một số giả thuyết khác cho rằng, khi đó, Amy Johnson đang trở về sau khi làm xong một nhiệm vụ ở Pháp, có lẽ cô bay cùng với một điệp viên. Hơn nữa, Johnson đã bay khi không có máy vô tuyến và trong điều kiện thời tiết xấu. Người ta cũng dự đoán, có thể cô đã lệch đường bay và cùng lúc đó bị hết nhiên liệu.

Tướng Sikorski mất tích năm 1943

Tướng Wladyslaw Sikorski, người đứng đầu chính phủ kháng chiến Ba Lan ở Tây Âu bị chết vì rơi máy bay ở Gibraltar năm 1943. Tháng 7/1943 chiếc phi cơ Liberator chở ông cùng hai dân biểu nghị viện Anh lao xuống biển sau khi cất cánh khỏi căn cứ Gibraltar thuộc Anh.

Tướng Sikorski lãnh đạo chính phủ Ba Lan. Ảnh: BBC. 

Đã có điều tra chính thức về nguyên nhân của vụ rớt máy bay. Một cuộc điều tra của Anh cho rằng bộ phận điều khiển bị kẹt, khiến máy bay gặp nạn. Tuy nhiên, một cuộc điều tra khác của phía Ba Lan không loại trừ khả năng ông Sikorski bị ám sát. Cái chết của vị lãnh tụ Ba Lan kháng chiến đã đem lại không ít thuyết đầy màu sắc về các âm mưu khác nhau dù không có chứng cứ. Cho đến nay, cái chết của tướng Sikorski vẫn còn là bí ẩn.

Ngôi sao điện ảnh nước Anh Leslie Howard

Leslie Howard là một trong những ngôi sao điện ảnh nổi tiếng nhất của Anh thập niên 1930. Khi chiến tranh bùng nổ, Leslie Howard từ Hollywood trở về để thực hiện những bộ phim yêu nước, ví dụ như Pimpernel Smith. Tháng 4/1943, ông đã đáp máy bay tới Lisbon để thuyết trình về phim và kịch tại Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.

Dù những bài nói chuyện của ông không có giá trị tuyên truyền, nhưng đối tác kinh doanh của ông đã lợi dụng cơ hội để thu xếp việc phân phối phim. Do đó, 900 rạp chiếu bóng Tây Ban Nha sẽ chiếu các phim chiến tranh của Anh.

Leslie Howard

Khi trở về vào ngày 1/6, Howard đã cất cánh từ Lisbon trên một chiếc máy bay dân sự chở khách DC3. Khi chiếc phi cơ bay qua vịnh Biscay, nó đã bị các chiến đấu cơ của nhóm Địa chủ quý tộc Đức bắn rớt. Không tìm thấy dấu vết gì của Howard, 12 hành khách khác và chiếc máy bay.

Lý do Đức bào chữa cho vụ bắn rớt chiếc máy bay là vì họ lầm tưởng chiếc DC3 là một máy bay bỏ bom của địch. Tuy nhiên, người ta đồn rằng Howard - một vị đại sứ uy lực của Anh - có lẽ là một mục tiêu bị nhắm từ lâu.

Tiểu thuyết gia người Pháp Saint-Exupéry

Tiểu thuyết gia vĩ đại người Pháp Antoine De Saint-Exupéry cũng là một phi công tiên phong chở thư tới Bắc Phi và Nam Mỹ. Khi Paris rơi vào tay quân Đức, Saint-Exupéry 43 tuổi, gia nhập Không quân Giải phóng Pháp. Ngày 31/7/1944 ông đã cất cánh từ căn cứ tại Bastia ở Corsica với nhiệm vụ lập bản đồ vùng đông Lyons, và từ đó thì không ai còn thấy ông nữa.

Antoine De Saint-Exupéry

Khi đó có những tin đồn thất thiệt ám chỉ rằng ông bị những người theo chủ nghĩa quốc gia cực đoan của Charles de Gaule mưu sát. Những người thân với Saint-Exupéry tin rằng từ lâu ông đã rơi vào nguy cơ có thể mất mạng.

Trước đó, ông Saint-Exupéry từng nói với một người bạn: “Nếu tôi khuất bóng, bạn có thể chắc rằng không gì phải hối tiếc cả”. Ông cũng đã để lại bộ cờ của ông cho một người khác và nói: “Hãy giữ lấy nó. Chúng ta sẽ chơi lại với nhau trên một hành tinh khác”.

Thứ Ba, 21 tháng 1, 2014

Bí ẩn không lời giải về thành phố giữa rừng hoang

Mặc dù không ít nhà khoa học đã dày công nghiên cứu, nhưng thành phố cổ Gedi vẫn còn là một dấu hỏi vẹn nguyên.

Sâu bên trong khu vực rừng rậm Arabuko Sokoke trên bờ biển phía Bắc Kenya, ẩn chứa một trong những kho báu bí ẩn nhất của ngành khảo cổ học châu Phi. Đó chính là thành phố cổ Gedi huyền thoại cùng với những câu chuyện chưa bao giờ được giải thích của nó.

Ngay từ khi mới được phát hiện, Gedi đã là một câu đố hóc búa gây ra nhiều tranh cãi cho các nhà sử học. Cho đến tận ngày nay, mặc dù không ít cuộc khảo sát quy mô đã được tiến hành, song vẫn không ai dám chắc điều gì đã xảy ra với Gedi và cư dân của nó.

Cổng vào còn khá nguyên vẹn của một tòa lâu đài tại Gedi. 

Người ta chỉ biết nơi đây từng là một thành phố đông đúc, phát triển mạnh mẽ cả về kinh tế, văn hóa và chính trị của người Swahili. Dân số của thành Gedi ước chừng 2500 người. Thành phố được xây dựng vào khoảng thế kỷ 13 và đạt tới sự cường thịnh trong vòng 2-3 trăm năm sau đó.

Bằng chứng về sự phát triển của thành phố Gedi cho đến ngày nay vẫn còn giữ lại được khá nhiều. Đó là dấu tích của rất nhiều ngôi nhà, lâu đài, nhà thờ Hồi giáo,lăng mộ hay thậm chí là cả các nghĩa trang.

Tất cả trải rộng trên một diện tích chừng 45 mẫu Anh (khoảng 18 cây số vuông), một quy mô không hề nhỏ đối với các thành phố ở châu Phi thời Trung Cổ.

Thế nhưng, điều kỳ lạ là Gedi lại không hề được đề cập đến trong bất cứ một ghi chép lịch sử nào của địa phương, thậm chí nó còn chẳng bao giờ xuất hiện trong các câu chuyện dân gian vốn là phương tiện “chép sử” phổ thông và rất phổ biến nơi đây.

Sau gần 4 thế kỷ bị bỏ hoang, khu rừng rậm bao quanh đang “gặm nhấm” dần cả một tòa thành từng hưng thịnh.

Ngay cả những người Bồ Đào Nha đã có mặt tại khu vực Malindi gần đó từ rất sớm, dường như cũng chưa bao giờ tiếp xúc hay có lẽ là cũng chưa bao giờ biết đến sự tồn tại của một thành phố Gedi hưng thịnh.

Chẳng lẽ cư dân Gedi sinh sống biệt lập và không bao giờ giao tiếp với các cộng đồng lân cận trong vùng?

Một điều khó hiểu nữa là thành phố Gedi mang dáng vẻ của một nơi giao thương buôn bán, với sự xuất hiện của những con đường lớn cùng nhiều kho hàng, cửa hiệu… Thế nhưng vị trí của nó lại dường như không phù hợp: nơi đây cách xa biển và thậm chí còn ẩn khuất trong rừng rậm.

Những khu nhà với đường sá khang trang cùng một giếng nước. 

Bức tường còn sót lại của một nhà thờ Hồi giáo tại khu vực thành cổ Gedi. 

Tuy nhiên bí ẩn lớn nhất của thành phố cổ này chính là lý do vì sao toàn bộ cư dân của nó lại đột ngột bỏ đi? Các nhà nghiên cứu xác định được rằng việc di dân diễn ra vào khoảng thế kỷ 17, nhưng nguyên nhân thì hoàn toàn mù tịt.

Không có bất cứ dấu hiệu nào của chiến tranh, bệnh dịch, thiên tai… những tác nhân thường gặp với một cuộc di cư đồng loạt. Toàn bộ cư dân Gedi đã vội vàng tháo chạy, bỏ lại thành phố to đẹp của họ cho thời gian và rêu phong tàn phá.

Chính điều này càng làm cho Gedi tăng thêm phần bí ẩn. Người dân địa phương cũng chỉ biết về Gedi một cách rất mơ hồ, họ cho rằng nó là thành phố ma đáng sợ, nơi cư trú của những linh hồn độc ác.

Dấu tích của một nghĩa trang tại Gedi.

Thành cổ Gedi được giới khoa học phương Tây lần đầu tiên biết đến vào năm 1948 và nhanh chóng gây được sự chú ý của nhiều nhà sử học. Rồi cũng chính vì những bí ẩn chưa có lời giải đáp của mình mà Gedi trở thành một địa điểm khám phá ưa thích của du khách thập phương.

Ngày nay Gedi là một trong những địa điểm du lịch nổi tiếng của Kenya. Du khách viếng thăm nơi đây có thể khám phá những tàn tích của tòa thành để hình dung về một quá khứ bí ẩn xa xưa. Hay đơn giản hơn là đắm mình vào một không gian hoang sơ, tươi đẹp.

Thứ Hai, 20 tháng 1, 2014

Hé lộ vụ án gây tranh cãi nhiều nhất trong giới hình sự

Cuộc đời của tên sát nhân máu lạnh đã quan hệ với xác chết này vô cùng ly kỳ và là một trong những đề tài được tranh cãi nhất trong giới khoa học hình sự…

Tuổi thơ kinh hoàng


Henry Lee Lucas sinh ngày 23/08/1936 tại Virginia, Mỹ. Lucas sống cùng gia đình mình dưới mái nhà tạm bợ có hai phòng được làm bằng gỗ ghép.

Bố của Lucas - ông Anderson bị tàn phế và không có khả năng lao động sau một tai nạn xe lửa, chính vì vậy, ông ta luôn trong tình trạng say khướt, còn người mẹ Viola luôn điều hành gia đình bằng một cây gậy sắt.

Ảnh thời thơ ấu của Lucas.

Lucas có tất cả 8 anh chị em, hầu hết trong số đấy đã được gia đình giao cho các tổ chức từ thiện nuôi dưỡng. Tuy nhiên, vì một vài lý do, Lucas cùng người anh vẫn được giữ lại nuôi và thường xuyên phải chịu những trận đòn roi từ người mẹ.

Éo le hơn, Lucas và ông bố tội nghiệp luôn phải chứng kiến cảnh bà Viola... bán dâm với người lạ. Ghê tởm với những việc làm của vợ, ông Anderson uất ức và tử vong do bệnh viêm phổi.

Thỉnh thoảng bà mẹ còn ép buộc Lucas mặc váy đi học. Năm 17 tuổi, một người anh vô tình chọc con dao vào mắt trái của Lucas. Tuy nhiên khi tai nạn xảy ra, Lucas không được đưa đi bệnh viện ngay mà phải ở nhà vài ngày. Do đó, khi được đưa vào bệnh viện, con mắt đã bị hoại tử, bác sỹ yêu cầu bỏ nó và thay bằng đôi mắt giả.

Hành trình tội ác...

Lucas dần lớn lên trong cay đắng và tủi nhục, không được học hành nhiều lại thiếu thốn tình thương của cha, mẹ hay anh chị em trong nhà. Tất cả những điều này chính là tác nhân hình thành “con quỷ” trong Lucas.



Lucas tham gia vào các hoạt động tội ác và bị bắt khi thực hiện một loạt các vụ trộm cướp táo bạo. Sau đó, hắn bị kết án 6 năm tại nhà tù bang Virginia.

Mặc dù trong thời gian ở tù, gã từng trốn trại hai lần nhưng vẫn được tòa án trả tự do sớm một năm. Lucas quay trở về sinh sống với chị gái nhưng mẹ Lucas - bà Viola bắt ép hắn phải về sống với bà.

Bức ảnh bà Viola - mẹ của Lucas.

Tuy nhiên, gã từ chối thẳng thừng, bà mẹ độc đoán lập tức đến tìm con trai đi để thuyết phục. Cuộc tranh cãi giữa hai mẹ con diễn ra nảy lửa, Viola do quá tức giận cầm cây chổi đánh Lucas tới tấp.

Giống như "giọt nước làm tràn ly", Lucas lập tức vớ con dao và xông vào tấn công bà Viola. Người đàn bà 74 tuổi tử vong ngay lập tức với một vết đâm chí mạng ở cổ.

Tại phiên tòa, gã thành khẩn cúi đầu thừa nhận mọi tội lỗi và ban bồi thẩm cảm thông. Lucas nhận án ngộ sát và được gửi đến nhà tù Jackson ở Nam Michigan.

Sau hai lần tự tử không thành, Lucas được gửi đến trung tâm tâm thần và được thả tự do sau 10 năm chịu án. Không lâu sau đó, gã lại tiếp tục đứng trước vành móng ngựa khi đang cố gắng bắt cóc hai bé gái tuổi vị thành niên.

Thi thể nạn nhân đầu tiên Lucas sát hại được phát hiện.

Vào tù ra tội mãi, cuối cùng, hắn được thả tự do vào năm 39 tuổi. Từ đây, Lucas di chuyển liên tục, không ở cố định nơi nào. Lucas kết thân với một gã quậy phá tên Ottis Toole khi ghé tới thị trấn Jacksonville năm 1976. Người bạn mới này đề nghị Lucas chuyển tới sống tại một căn hộ nhỏ. Nơi đây, Lucas gặp Becky Powell - cháu gái của Toole - một cô bé bị tâm thần dạng nhẹ, thiếu thốn sự quan tâm của gia đình và bạn bè.

Lucas tỏ ra quan tâm cô bé nên trong mắt của Powell, Lucas là một người rất quan trọng và cô gái cũng là người đầu tiên mang đến cho Lucas một cảm giác đặc biệt.


Năm 1981, mẹ của Toole qua đời và chính quyền thu hồi lại căn nhà. Cặp đôi này rời Jacksonville và tới dừng chân ở Ringgold, Texas. Họ sống với nhau như vợ chồng ở khu trang trại gà bị bỏ hoang. Đây được coi là khoảng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời Lucas. Hắn tự xây dựng ngôi nhà của mình, tự mua được một chiếc xe ô tô và sắm những đồ đạc cần thiết cho căn nhà như tivi, giường ngủ…

Mọi chuyện tưởng chừng diễn ra tốt đẹp với Lucas cho đến một ngày, Lucas khóc lóc và kể với hàng xóm xung quanh rằng Powell nhớ nhà nên đã nhảy lên một chiếc xe tải và bỏ hắn ở lại.


Tháng 06/1983, Lucas bị bắt giữ với tội danh tàng trữ vũ khí trái phép và sau 5 ngày tra khảo, Lucas nhận tội về cái chết của Rich - một người phụ nữ trung niên mất tích vào năm ngoái.

Lucas khai nhận đã rủ Rich đi nhà thờ nhưng thay vào đó, gã lái xe đi lòng vòng, khi đến địa điểm thích hợp thì ra tay giết người đàn bà này rồi bắt đầu quan hệ với xác chết.

Khi đã thỏa mãn thú vui bệnh hoạn, gã giấu xác nạn nhân dưới một ống cống rồi bỏ đi. Sau đó mấy ngày, Lucas quay trở lại bắt đầu công đoạn thủ tiêu nạn nhân, xóa dấu vết bằng cách cho xác chết vào lò đốt cháy thành tro bụi trong vòng hai ngày.


Dựa trên lời khai, cảnh sát tổ chức lục soát trang trại, tìm thấy được những mảnh xương còn sót và tro cốt ở trong lò đốt. Ngoài ra, tại vườn của tên “râu xanh” bệnh hoạn này còn thấy một bộ quần áo và chiếc kính của nạn nhân. Trước vật chứng xác đáng, Lucas chỉ còn biết cúi đầu nhận tội và bị kết án giết người.

Trong quá trình điều tra cảnh sát phát hiện ra một điều vô cùng đáng sợ, thực tế Powell không về nhà mà đã bị Lucas giết chết, say đó hắn cắt Powell thành nhiều mảnh đem chôn. Lucas khai nhận: “Tôi rất yêu Powell, không bao giờ tôi muốn giết cô ấy. Chúng tôi đang sống rất hạnh phúc thì cô ấy muốn về nhà, rời xa tôi, bỏ lại những tháng ngày vui vẻ. Tôi không chấp nhận điều này xảy ra. Powell là của tôi, mãi mãi sẽ là của tôi mà thôi”.

Bộ mặt thật của kẻ bịp bợm

Phiên tòa xét xử vụ giết Kate Rich được tổ chức vào ngay sau đó - tháng 6/1983. Tại đây, Lucas cúi đầu nhận tội và bị tuyên 75 năm tù. Điều đặc biệt hơn, khi kết thúc phiên tòa, hắn đã tiết lộ một tin khiến mọi người có mặt tại phiên tòa lạnh gáy: “Tôi đã giết khoảng 100 người phụ nữ”.

Tên sát nhân Lucas có mặt hầu hết ở các trang báo.

Những thông tin liên quan đến Lucas trở nên nóng hổi hơn bao giờ hết và có mặt tại trang nhất ở hầu hết các báo. Các cảnh sát từ khắp nơi trên đất nước đồng loạt xin diện kiến tên sát nhân máu lạnh này với hy vọng có chút manh mối về những vụ giết người chưa có lời giải tại khu vực của mình.

Tên sát nhân điên cuồng này sau đó tự thừa nhận mình là tác giả của 600 vụ án. Cảnh sát đã liên hệ được 81 vụ giết người, cùng lời khẳng định, Lucas là hung thủ của 8 vụ án nghiêm trọng trên khắp cả nước.


Tuy nhiên, khi điều tra một vụ án mang tên “chiếc tất cam” mà Lucas nhận mình là hung thủ, cảnh sát đã phát hiện ra một chiêu trò của tên máu lạnh. Trong cuộc kiểm tra, máy nói dối đã kết luận rằng, Lucas không phải là hung thủ trong vụ án đó.

Các điều tra viên cho rằng, đây chỉ là cái cớ để hắn ta kéo dài bản án và có một cuộc sống dễ chịu (do bị giám sát đặc biệt vì gây trọng án) mà thôi. Nghe có vẻ phi lý, nhưng việc liên tiếp thú nhận các vụ án mạng khác nhau giúp gã được tới các khu điều tra đặc biệt với chất lượng sống cao, có chế độ ưu đãi đặc biệt như một "ông hoàng".


Nhưng cuối cùng, thủ thuật ấy cũng bị vạch trần. Đến ngày 26/01/1998, thống đốc bang Texas lúc bấy giờ đã quyết định Henry Lee Lucas sẽ phải nhận bản án chung thân vì đã giết mẹ, vợ, Kate Rich cùng 8 người khác.

Thống đốc cũng yêu cầu cảnh sát không được phép cho hắn tham gia vào bất kỳ công việc điều tra nào. Kể từ đây, tên sát nhân sống cuộc đời cực khổ tại nhà lao Florida và mất năm 2001 vì bệnh xơ gan.

* Bài viết có sử dụng tư liệu tham khảo từ các nguồn: Biography, ABCNews, CriminalMinds, Wikipedia...

Chủ Nhật, 19 tháng 1, 2014

Bật mí về chiếc tàu thủy đầu tiên do VN chế tạo

Chiếc tàu thuỷ do người Việt Nam tự chế tạo lần đầu tiên vào thời vua Minh Mạng.

Đây không chỉ là một thành công về mặt kỹ thuật mà còn thể hiện quyết tâm của nhà vua, quyết không lệ thuộc vào kỹ thuật của nước ngoài.Tháo gỡ sự lệ thuộc về kỹ thuật

Vua Minh Mạng húy là Hiệu, lại có tên là Đởm, sinh ngày 23 tháng Giêng năm Tân Hợi (1781), là con thứ tư của vua Gia Long. Tháng Giêng năm Canh Thìn (1820), Hoàng Thái tử Đởm lên ngôi vua, đặt quốc hiệu là Đại Nam, niên hiệu là Minh Mạng. Khi đó nhà vua mới 30 tuổi.

Minh Mạng có tư chất thông minh, hiếu học, ham hiểu biết, vào những năm cuối đời ông lại quan tâm đến máy móc cơ khí.

Sử cũ ghi: Gia Long có trong tay mấy chiếc tàu chạy bằng hơi nước mua của người Pháp từ lúc còn tranh hùng với nhà Tây Sơn. Bọn lái tàu và thợ máy đều là người Pháp. Họ cậy thế mình hiểu biết kỹ thuật hay lên mặt với quan quân Việt Nam. Khi vua Minh Mạng lên ngôi, các đạo dụ về cấm ngặt đạo Thiên chúa được thi hành triệt để khiến bọn này tức tối, yêu sách đủ điều. Trước mắt chúng dùng biện pháp kỹ thuật để gây trắc trở cho việc chạy tàu của ta. 

Biết việc này vua Minh Mạng tìm mọi cách để tháo gỡ sự lệ thuộc về kỹ thuật này. Nhà vua đã khuyến khích công tượng Việt Nam tìm mọi cách học hỏi kỹ thuật lái tàu và sửa tàu, ai học được Vua sẽ ban thưởng rất hậu.

Hình khắc chiếc thuyền đi biển triều Nguyễn. 

Không sợ tốn kém

Khoảng năm 1838, vua Minh Mạng chỉ thị cho Võ khố bắt chước tàu của Tây Dương chế tạo ra tàu cho Việt Nam dùng. Nhiều đại thần đã tìm cách khuyên can nhà vua vì rất tốn kém cho công quỹ. Minh Mạng phán: Mua tàu của Tây Dương cũng được, nhưng muốn khiến cho công tượng nước ta quen với máy móc, vì vậy chẳng nên sợ lao phí gì!

Thực hiện chỉ dụ của Minh Mạng, thợ thuyền trong công tượng chưa nhận thức được đầy đủ còn tự ti do dự. Minh Mạng đốc thúc liên tục song từ quan cho đến thợ không ai đứng ra nhận. Giữa lúc đó có một anh thợ rèn tên là Huỳnh Văn Lịch, người làng Hiền Lương xin dứng ra đảm nhận. Lập tức Huỳnh Văn Lịch được giao làm giám đốc xưởng.

Ông Lịch không biết máy móc nhưng rất giỏi nghề rèn, cùng cộng tác với ông có ông Võ Huy Trinh. Hai người phân công nhau điều khiển đám thợ rèn, thợ nguội triển khai dựa vào kiểu chiếc tàu để lại từ thời vua Gia Long. Chẳng bao lâu sau, chiếc tàu đã xong giống y chiếc tàu của Tây Dương. Vua Minh Mạng đích thân ra sông Ngự Hà xem tàu chạy thử. Tàu vận hành tốt, tốc độ tàu không thua kém tàu của Tây Dương. Vua Minh Mạng rất vừa lòng, lập tức ban thưởng cho hai ông mỗi người một chiếc nhẫn vàng và một đồng tiền vàng Phi Long hạng lớn, còn đốc công và binh tượng được thưởng chung một ngàn quan tiền.

Tháng 10/1839, nhà vua lại cho đóng thêm một con tàu lớn hơn nữa với mức tốn phí là 11.000 quan tiền. Người thợ rèn Huỳnh Văn Lịch đã trở thành người kỹ sư chế tạo máy đầu tiên của nước ta.

Thứ Năm, 16 tháng 1, 2014

Bí ẩn bao trùm các thảm họa tàu ngầm Pháp

Tại sao sự biến mất của tàu ngầm Eridis từng gây rúng động thế giới nhận được quá ít sự quan tâm của báo giới, trong sách vở và phim ảnh?

Cái "chết" hay đúng hơn là sự biến mất đột ngột của tàu ngầm Eridis thuộc hạm đội của Pháp vào sáng sớm ngày 4/3/1970 từng dấy lên những tranh cãi nảy lửa khắp thế giới. Bất chấp sự thật rằng người ta đã tìm thấy hiện trường sự cố gần như ngay lập tức, các chuyên gia vẫn mất gần 2 tháng mới tìm thấy xác tàu ngầm. Đây không phải là chi tiết bí ẩn duy nhất về thảm họa.

Ảnh tư liệu về tàu ngầm Eridis của Pháp.

Nhìn chung, hiện chẳng có mấy thông tin về tàu ngầm Eridis của Pháp. Trong khi đó, đã có hàng chục cuốn sách và nhiều bộ phim tài liệu về cái "chết" của tàu ngầm Kursk của Nga. Một bộ phim tài liệu nổi tiếng về thảm họa tàu ngầm Kursk do nhà báo lừng danh Pháp Jean-Michel Carre thực hiện, đã lấy cảm hứng từ một bài báo đăng tải 3 năm sau sự cố.

Trong Liên hoan phim quốc tế về hàng hải và các cuộc thám hiểm biển có tên gọi "Đại Dương vẫy gọi" mới diễn ra ở St. Petersburg (Nga), phóng viên báo Pravdađã có cơ hội trò chuyện với cựu chỉ huy tàu ngầm hạt nhân thứ ba của Pháp - Thiếu tướng Hải quân Jean-Marie Mate. Vị tướng này không hé lộ thêm bất kỳ bí mật đặc biệt nào về tàu ngầm Eridis ngoài những chi tiết hạn hẹp bạn có thể tìm thấy công khai trên báo chí. Ông Jean-Marie Mate nhấn mạnh rằng, các thủy thủ tàu ngầm, dù có quốc tịch là gì, vẫn luôn là các anh hùng.

Tuy nhiên, một câu hỏi đặt ra là: Tại sao sự biến mất của tàu ngầm Eridis nhận được quá ít sự quan tâm của báo giới, trong sách vở và phim ảnh? Việc mất tích đột ngột của tàu ngầm này ở Địa Trung Hải từng gây rúng động thế giới ... Cho tới hiện tại, đáp án cho câu trả lời trên vẫn là một bí ẩn.

Phóng viên trang Pravda đã cố gắng thu thập manh mối của sự việc thông qua nỗ lực lục lọi lại hồ sơ lưu trữ của Nga, hay nói chính xác hơn là của Hải quân Xô viết - lực lượng cũng từng tham gia điều tra sự cố. Kết quả thu được như sau:

Tàu ngầm Eridis thuộc lớp tàu ngầm tuần tra điện - diesel Daphne. Đã có 11 chiếc tàu ngầm dạng này được chế tạo tại Pháp, cho Hải quân Pháp và tất cả chúng đều được đặt tên theo các nữ thần trong thần thoại. Lực lượng hải quân của các nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Nam Phi và Pakistan cũng từng đặt hàng Pháp đóng những chiếc tàu ngầm như vậy.

Một chiếc tàu lớp Daphne có chiều dài khoảng 58 mét và được trang bị 12 ống phóng ngư lôi, nhiều hơn một chút so với bất kỳ tàu ngầm cùng loại nào của Nga.

Theo dữ liệu có thể tìm thấy trong các nguồn lưu trữ của Nga, việc chế tạo tàu ngầm S-644 Eridis bắt đầu từ tháng 7/1958 tại xưởng đóng tàu hải quân Direction des Constructions et Armes Navales ở Cherbourg. Tàu ngầm này được hạ thủy lần đầu tiên vào ngày 19/6/1960 và đến ngày 26/9/1964 chính thức làm nhiệm vụ cho Hải quân Pháp. Cũng như các tàu ngầm khác thuộc hạm đội Pháp, nhiệm vụ chính của Eridis là phục vụ huấn luyện chiến đấu cho thủy thủ đoàn, tuần tra bờ biển phía bắc Pháp và Bắc Phi cũng như hộ tống tàu bè dân sự chuyên chở hàng hóa quan trọng. Tàu Eridis chưa từng di chuyển ra bên ngoài vùng nước Đại Tây Dương.

Phần còn lại của xác tàu Eridis dưới đáy Đại Tây Dương.

Sáng sớm ngày 4/3/1970, tàu Eridis rời căn cứ Saint-Trope, với 57 người trên boong. Khi ra khơi, tàu ngầm này có nhiệm vụ phối hợp với hàng không để luyện tập tìm kiếm và tấn công một tàu ngầm giả định của kẻ thù. Với mục đích này, tàu Eridis luôn giữ liên lạc với máy bay tuần tra Atlantic cất cánh từ căn cứ hải quân Nimes-Garon. Biển ban đầu tương đối tĩnh lặng. Các phi công từ trên cao vẫn nhìn thấy ống kính tiềm vọng nhô lên của Eridis khi tàu ngầm này còn cách phía đông nam Mũi Camara gần 11,3km. Liên lạc có vẻ bình thường. Đột nhiên, đến 7h13 sáng (theo giờ địa phương), bên phối hợp tác chiến ngưng nhận được các thông điệp từ tàu Eridis. Máy bay Atlantic mất liên lạc tín hiệu radar với tàu ngầm ...

Trong thông điệp radio cuối cùng, chỉ huy tàu Eridis nói ông đang tới khu vực luyện tập và chuẩn bị cho tàu lặn. Gần như ngay khi mất liên lạc, máy bay và tàu chống tàu ngầm của hải quân bắt đầu tìm kiếm tàu ngầm mất tích. Hải quân Pháp đã huy động mọi vật lực có thể vào cuộc, từ 8 tàu nổi trên mặt nước, 6 tàu quét thủy lôi, các tàu ngầm lớp Daphne và Doris tới các máy bay và trực thăng. Người Mỹ và Italia cũng tham gia quá trình tìm kiếm bằng cách cử 4 tàu dò thủy lôi và tàu cứu hộ Skylark.

Khu vực biến mất của tàu Eridis cũng như nơi máy bay tuần tra Atlantic lần cuối nhìn thấy tàu Eridis được xác định nhanh chóng. Không lâu sau đó, người ta đã tìm thấy một lượng lớn nhiên liệu diesel, một mảnh gỗ dán và một tấm các đục lỗ có tên Eridis. Phần còn lại của chiếc tàu ngầm chứng minh nó đã bị chìm.

Các chuyên gia bắt đầu điều tra sự mất tích của Eridis. Họ đã phân tích các mẫu nhiên liệu diesel trên mặt nước cũng được phát hiện sau đó. Kết quả phân tích cho thấy, số nhiên liệu này chứa hàm lượng lưu huỳnh cao - đặc điểm nhiên liệu của tàu Eridis.

4 ngày sau khi quá trình tìm kiếm bắt đầu, lãnh đạo lực lượng Hải quân Pháp tuyên bố tàu Eridis cùng toàn bộ 57 thành viên thủy thủ đoàn đã tử nạn. Mọi lực lượng tham gia tìm kiếm và tất cả các tàu thuộc hạm đội Pháp đã tiến hành nghi lễ tưởng niệm các nạn nhân xấu số.

Một thời gian sau, thông qua phân tích dữ liệu của các địa chấn kế trong những phòng thí nghiệm khảo sát ven biển, người ta phát hiện đã có một vụ nổ xảy ra vào ngày 4/3/1970, lúc 7h28. Nơi xảy ra thảm kịch nhanh chóng được phát hiện. Tuy nhiên, các chuyên gia phải mất rất nhiều thời gian mới tìm thấy xác tàu ngầm Eridis.

Họ hàng của các thủy thủ tử nạn yêu cầu nhà chức trách phải tìm thấy xác tàu ngầm bằng mọi giá cũng như xác định nguyên nhân thảm họa. Chính phủ Pháp đã yêu cầu Mỹ hỗ trợ tìm kiếm và phải hơn 1,5 tháng sau, người Mỹ mới trục vớt được nhiều mảnh vỡ lớn của tàu Eridis ở độ sâu từ 600 - 1.000 mét so với mực nước biển.

Sau này, người ta đã tìm thấy một mảnh vỡ lớn của đuôi tàu Eridis nằm ở trung tâm một cái hố kỳ lạ, có đường kính 30 mét. Tất cả các mảnh kim loại của tàu bị vặn xoắn và biến dạng dị thường. Các tờ báo của châu Âu bắt đầu đặt ra nhiều nghi vấn. Lỗi thiết kế hay lỗi của thủy thủ đoàn? Có cả những đồn đoán về sự can thiệp của người ngoài hành tinh cũng rất thịnh hành thời điểm đó. Một số lại nhận định, tàu Eridis đã va chạm với một tàu buôn. Trong thực tế, các tàu thuyền chở hàng của Tunisia, Argentina và Hy Lạp thường xuyên qua lại khu vực xảy ra tai nạn.

Kết quả điều tra sự cố chưa bao giờ được công bố trước công luận. Cái "chết" của tàu Eridis từng làm chấn động toàn nước Pháp. Vài năm trước đó, 3 tàu ngầm của nước này từng lần lượt chìm cùng toàn bộ thủy thủ đoàn gần Toulon.

Nguyên nhân của các thảm họa trên vẫn còn là một bí ẩn. Liệu có khi nào tồn tại một "Tam giác quỷ Bermuda" mới ở Đại Tây Dương?

Ở Toulon, tại một trong những căn cứ chính của Hải quân Pháp, người ta đã dựng nên một đài tưởng niệm các thủy thủ tàu ngầm đã chết. Người Pháp vẫn đến đây để bày tỏ sự tưởng niệm đối với những người xấu số.

Thứ Tư, 15 tháng 1, 2014

Bí ẩn tục hiến gái đồng trinh thời tiền sử

Vấn đề trinh tiết của nữ giới trước hôn nhân gắn với tục lệ "hiến gái đồng trinh" từ thời tiền sử chứa đựng rất nhiều bí ẩn.

Cô dâu “hiến trinh” cho ai?

Từ thời tiền sử, con người rất coi trọng tục “hiến gái đồng trinh”. Nếu trong bộ lạc có người kết hôn, mọi người sẽ nô nức đến chúc mừng, uống rượu, nhảy múa hân hoan. Khi sự phấn khởi của hôn lễ đến cao trào, một số người trong bộ lạc sẽ rước cô dâu đến một gian phòng khác, dùng đồ đá hoặc que gậy để phá trinh của cô dâu. Sau đó, một người sẽ cầm vật có dính máu trinh của cô dâu đưa ra cho mọi người xem.

Tục “hiến gái đồng trinh” hiện vẫn còn tồn tại trong một số bộ lạc ở Australia. Ở một số nơi như bộ tộc Masa gần xích đạo ở Châu Phi, bộ tộc Sakai ở Malaya, bộ tộc Batas ở đảo Sumatera, Indonexia đều có tập tục này. Và trên thực tế, “hiến gái đồng trinh” là một hiện tượng rất phổ biến ở thời kỳ đầu lịch sử nhân loại.

Tuy nhiên, có một điểm khác, là ở thời tiền sử, cô dâu không được chọn người để “hiến trinh”. Theo quy định chung, người phá trinh cô dâu ở một số bộ lạc là bố của cô dâu, là bạn của chú rể, hoặc là người đức cao vọng trọng trong bộ lạc… Trong cuốn “Bí ẩn văn hóa Việt Nam và thế giới” có viết: “Trong bộ tộc Alfu ở Calebel, vai trò kỳ quái này lại do chính bố cô dâu đảm nhiệm. Ở một số bộ lạc người Eskimos, thầy mo có trách nhiệm làm công việc được cho là thiêng liêng này. Còn ở Australia thì một phụ nữ già đáng kính trong bộ lạc sẽ làm rách màng trinh của cô gái”.

Ảnh minh họa. 

Theo cuốn “Marco Polp du ký”, một số dân tộc thiểu số vùng biên giới Vân Nam, Trung Quốc có tục hiến gái đồng trinh cho người lạ. Ở Hy Lạp, cô gái đồng trinh hiến thân cho đại diện của thần trước điện thờ. Ở một số nơi ở châu Âu, đêm tân hôn của các cô gái, các lãnh chúa địa phương là người có quyền chiếm hữu.

Nhiều địa phương ở Ấn Độ còn có một “dụng cụ sinh sản tượng thần” làm bằng gỗ dùng để phá trinh người con gái. Tùy theo quan niệm mỗi nơi mỗi khác, nhưng có một điều chắc chắn và điều đáng buồn nhất là người hoàn thành sứ mệnh đó không phải chồng của cô dâu.

Đỉnh cao nghệ thuật… “đánh lừa chú rể”?

Các nhà tâm lý học cho rằng, rất khó lý giải hiện tượng này, bởi sau khi loài người thực hiện chế độ có vợ có chồng thì quan niệm trinh tiết mới được đặt ra. Có thể thấy rằng, trong những bộ lạc kể trên, bất kể là cô dâu, chú rể hay những người khác trong bộ lạc đều không coi trọng trinh tiết của người con gái, thậm chí còn có tâm lý sợ hãi với nó.

Thực tế, một số nơi trên thế giới vẫn còn tồn tại hiện tượng kỳ lạ là chú rể kiêng kỵ phá trinh cô dâu, vì vậy mới xuất hiện người thứ ba giúp đỡ. Những người không hiểu lịch sử người nguyên thủy và dân tộc học lại không thể tin nổi điều này. Nguyên nhân vì sao người nguyên thủy có phong tục này đến nay vẫn còn là điều bí ẩn.

Nhà tâm lý học nổi tiếng Freud (người Áo) cho rằng, từ góc độ sợ chảy máu, sợ hãi, lạ lùng đều không đạt đến bản chất tục hiến trinh. Ông cho rằng, với phụ nữ, tân hôn có thể dẫn đến vết thương ở bộ phận sinh dục trong và vết thương tâm lý. Vết thương tâm lý đó thường là sự tiếc nuối và thất vọng khi mất trinh, biểu hiện sự căm giận sâu sắc đối với người đã cướp đoạt sự trinh tiết của mình. Để tránh cho người chồng sau này trở thành đối tượng bực tức trong lòng cô gái, tránh cho người vợ có tâm lý đối nghịch, nên một số bộ lạc mới có hiện tượng “kỵ gái đồng trinh”.

Đối với nam giới nguyên thủy, họ coi người nữ là người bí hiểm, thậm chí gây sợ hãi. Họ cho rằng nếu phá trinh phụ nữ sẽ đem tai họa cho gia tộc người chồng, vì vậy người chồng cần tránh.

Một số ý kiến khác lại cho rằng, kiêng kỵ gái đồng trinh là hiện tượng tâm lý của thời đại tự do tình dục. Thời đại tự do tình dục của loài người thời tiền sử đã để lại rất nhiều tàn dư như hiện tượng quần hôn. Người thứ ba, thường là nam giới thông qua nghi thức đã tiến hành phá trinh cô gái.

Theo nghiên cứu của các nhà sử học, ở các bộ lạc Australia có lúc nhiều người nam công khai tiến hành nghi thức của tục lệ này, tất nhiên là có theo một quy định trước đó. Điều này thực tế là một hồi ức đối với cuộc sống quần hôn thời cổ đại.

Ngoài ra, để tăng lòng dũng cảm, người nguyên thủy thường uống máu của kẻ thù và máu động vật, vì vậy màu máu trong đêm tân hôn với họ là điều kiêng kỵ. Tuy vậy, chính trong hiện tượng kiêng kỵ này lại có đầy những mâu thuẫn. Rằng nếu sợ rủi ro khi phá trinh cô dâu thì bạn của chú rể hoặc những người trong bộ lạc vì sao lại đảm nhận trách nhiệm được xem là “nguy hiểm” này?

Có người cho rằng, đây là một quan niệm tình dục tránh cho người phụ nữ không mắc phải tâm lý cuồng loạn do quá hồi hộp, sợ hãi tạo ra. Một số người khác lại xem như đây là tục lệ khôn ngoan của người nguyên thủy. Những người này cho rằng, về tâm lý, tình cảm, người nguyên thủy có tình cảm phong phú không kém gì người hiện đại. Việc dùng các cách phá trinh người con gái trước hôn nhân, về mặt bản chất là để đảm bảo hạnh phúc của đôi vợ chồng sau ngày cưới. Sống trong điều kiện ít bị ràng buộc trong bộ lạc, người chồng có thể bỏ rơi người vợ của mình sau khi cưới nếu biết cô gái đó không còn trinh. Nếu ở chế độ quần hôn, hiện tượng “kiêng kỵ gái đồng trinh” chưa xuất hiện, thì tục lệ “hiến trinh” thời tiền sử là đỉnh cao nghệ thuật “đánh lừa chú rể” của các bộ tộc lạc hậu trên trái đất. Tuy vậy, đó cũng chỉ là một giả thuyết.

Hiện tượng “hiến gái đồng trinh” thời tiền sử không chỉ là bí ẩn của các nhà nghiên cứu, mà còn là điều khiến con người thời hiện đại quan tâm. Việc nghiên cứu, phát hiện của các nhà sử học về tập tục này phần nào cho chúng ta biết về trạng thái tâm lý và tình trạng hôn nhân trước khi người tiền sử bước vào xã hội văn minh hơn.

Thứ Ba, 14 tháng 1, 2014

Bí ẩn vương quốc đàn bà thiện chiến Amazon

Trong thần thoại Hy Lạp, Amazon là một bộ lạc nữ quyền thiện chiến, giỏi cưỡi ngựa, bắn tên, và nam giới không thể vào được lãnh thổ của họ.

Bộ tộc nữ Amazon huyền thoại

Trong thần thoại Hy Lạp, câu chuyện về vương quốc phụ nữ Amazon được nhiều người quan tâm. Trong truyền thuyết, những người phụ nữ Amazon được miêu tả là rất khỏe mạnh và hung tợn. Họ sống trong khe núi và rừng rậm ở một vùng rộng lớn khu vực Pantus thuộc bờ phía Đông Bắc Hải Hy Lạp. Kinh đô của vương quốc là Tamisira, bờ Đông sông Termo.

Tương truyền, người Amazon có hai nữ hoàng, một người phụ trách quân đội, một người phụ trách chính quyền. Hai nữ vương cùng quản lý vương quốc. Khi đến tuổi trưởng thành, mỗi nữ chiến binh Amazon đều phải đốt hoặc cắt bầu vú bên phải để tiện ném lao hoặc gương cung. Những nữ chiến binh Amazon tin tưởng rằng mình là hậu duệ của thần chiến tranh Ares. Ngoài ra, họ rất sùng bái nữ thần săn bắn Artemis. Chiến trận, săn bắn, làm nông nghiệp giản đơn là toàn bộ cuộc sống của người phụ nữ ở vương quốc này.

Nữ chiến binh Amazon chuẩn bị cho một trận đánh. Tượng năm 1860 của Pierre Hébert đặt tại bảo tàng nghệ thuật quốc gia Hoa Kỳ. Ảnh: Wikipedia. 

Tuyệt đại bộ phận nữ chiến binh Amazon đều tác chiến trên lưng ngựa. Họ giỏi cưỡi ngựa và bắn tên, thậm chí, có rất nhiều nữ chiến binh Amazon xuất hiện trong quân đội các nước trên thế giới với tư cách là lính đánh thuê.

Trong truyện thần thoại Hy Lạp có kể về câu chuyện tráng sĩ Thesee giúp dũng sĩ Hercules tấn công các nữ tướng Amazon Hipolyte. Sử thi Iliad cũng kể các chiến binh Amazon đã từng giúp người Troy đánh quân Hy Lạp. Kết quả, nữ hoàng Amazon đã bị tráng sĩ Achilles giết chết.

Thế nhưng trong cuốn “Bách khoa toàn thư Colombia” cũng có mục viết về vương quốc nữ Amazon. Sách miêu tả nữ chiến binh Amazon rất kỳ dị: Amazon là một bộ lạc nữ quyền thiện chiến. Họ sống ở vùng Tiểu Á. Đây là một xã hội theo chế độ mẫu hệ. Phụ nữ giỏi chiến trận và quản lý, đàn ông lo cơm nước trong gia đình. Mỗi phụ nữ phải giết được một người nam mới được kết hôn. Tất cả những đứa trẻ khi sinh ra, nếu là nam đều bị giết chết.

Trong truyền thuyết, nam giới không thể vào lãnh thổ của người Amazon. Để tránh sự tuyệt chủng dân tộc, những người phụ nữ Amazon được phép một năm một lần đi thăm người Gagaria - một bộ lạc láng giềng. Sau đó, đứa trẻ sinh ra nếu là gái sẽ được nuôi tử tế, còn nếu là trai thường bị giết chết ngay. Một số bé nam được trả về cho cha nó.

Vương quốc Amazon là tưởng tượng?

Nhiều tài liệu viết về vương quốc đàn bà Amazon như thế, nhưng từ xa xưa vẫn có nhiều ý kiến cho rằng, có thể vương quốc đàn bà Amazon này chỉ là sự tưởng tượng hư cấu của các nhà thơ. Những người nghi ngờ đó cho rằng, các nữ chiến binh Amazon chỉ có trong thần thoại, bởi cho đến nay, chúng ta vẫn chưa tìm thấy di tích của họ. Người ta giải thích, “vương quốc nữ Amazon” chẳng qua là sự tưởng tượng của người Hy Lạp với sự thống trị của nam giới.

Thế nhưng lật ngược vấn đề, giả sử họ không có thật thì tại sao người Hy Lạp lại bỏ ra nhiều thời gian và bút mực để khắc họa hình tượng các nữ chiến binh Amazon thiện chiến, dũng cảm và ca tụng họ nhiều đến thế?

Sau này, con người cũng phát hiện ra một số di tích và câu chuyện kể về vương quốc của các nữ chiến binh khiến người ta tin tưởng rằng vương quốc này thực sự tồn tại. Như ở thế kỷ XVI, một đội tàu tìm kho báu Tây Ban Nha kể rằng, họ đã bị các nữ chiến binh Amazon giống như trong truyền thuyết tấn công ở Amazon.

Sự trừng phạt của nữ thần. Nữ thần săn bắn Artemis là vị thần được các nữ chiến binh Amazon tôn thờ. Aktian đã nhìn trộm nữ thần Aphrodie đang tắm, nữ thần săn bắn Artemis trong cơn tức giận đã sai những con chó săn của Aktian cắn chết Aktian. Trong ảnh nữ thần săn bắn đang giương cung nhằm vào Aktian, trong khi đó, đàn chó săn đang xông vào cắn xé Aktian.

Hay, trong cuốn “Lịch sử”, nhà sử học Hy Lạp cổ Herodutus thì viết khá tường tận những chuyện ở vương quốc phụ nữ Amazon. Trong đó, ông miêu tả rất kỹ cuộc chiến tranh cuối cùng giữa người Hy Lạp và người Amazon. Cuối cùng, người Hy Lạp đã đánh bại họ, bắt rất nhiều tù binh đem về Athens. Nhưng khi thuyền ra đến biển, do coi giữ không nghiêm, các nữ binh Amazon đã giết chết những quản giáo người Hy Lạp và chạy thoát. Tuy nhiên, do không thạo đi biển, thuyền của họ đã trôi dạt đến vùng biển Assyria ở phía Đông Bắc Hắc Hải và họ đã chiến đấu với người Sesia. Nhưng khi phát hiện thấy họ là nữ giới, người Sesia liền bỏ vũ khí và bày tỏ tình yêu. Kết quả, họ đã xây dựng một bộ lạc nữ quyền mới.

Nhà sử học Herodutus còn cho rằng, cuộc chiến tranh của người Hy Lạp với người Amazon là khởi nguồn của người Solomatia.

Đến năm 1997, phát hiện khảo cổ đã hé mở phần nào bí ẩn về nữ chiến binh Amazon. Đội khảo sát liên hợp Nga, Mỹ đã khai quật được hơn 150 ngôi mộ của các bộ lạc du mục có niên đại 600 TCN – 200 TCN ở thảo nguyên miền Nam nước Nga thuộc Kazakhstan.

Trong đó, xương và binh khí trong mộ được chôn cùng, trong đó có mũi tên cắm sâu trong người một phụ nữ. Điều đáng chú ý là nhóm khảo sát phát hiện xương của một bé gái khoảng 14 tuổi. Ngoài bộ xương và cây kiếm, cổ bé gái còn đeo một bùa hộ thân và một mũi tên đồng. Bên phải có một con dao găm, bên trái là một bao đựng tên với hơn 40 mũi tên, và hai chân hơi cong. Nhóm nghiên cứu cho rằng, cấu trúc như vậy có lẽ do cưỡi ngựa trong một thời gian dài.

Một vài dấu hiệu cho thấy, rất có thể đây là những nữ chiến binh Amazon cổ đại. Thế nhưng các nhà nghiên cứu cũng chưa dám kết luận vì: “Tuy họ có vẻ giống như võ sĩ nhưng trên xương không hề có vết tích chết do bị thương hoặc bị đâm chém”. Các nhà nghiên cứu đặt ra một giả thiết khác, có thể họ là bộ tộc thượng võ và những vũ khí kia chỉ là đồ tùy táng.

Nhà sử học Herodutus liệu có tận mắt nhìn thấy hoặc có chứng cứ cụ thể về các nữ chiến binh Amazon? Trên thực tế, cả các nhóm nghiên cứu với những thứ họ khai quật được chưa đủ để khẳng định chắc chắn sự tồn tại của vương quốc phụ nữ Amazon. Đến nay, bí ẩn về vương quốc phụ nữ thiện chiến Amazon vẫn thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của các nhà khảo cổ học trong xã hội hiện đại.

Thứ Hai, 13 tháng 1, 2014

Sự thật ít biết về tàu vũ trụ tưởng tượng thời xưa

Từ hơn 300 năm trước, con người đã ôm giấc mơ chinh phục vũ trụ bằng những phương tiện đặc biệt để có thể đặt chân lên Mặt trăng.

Năm 1638, người Thanh giáo vẫn sinh sống ở New England. Vào thời gian này, nhà thiên văn học, vật lý học, toán học và triết học người Italy Galileo vẫn còn sống.

Trên thực tế, Galileo đã có những lần quan sát đầu tiên của bề mặt Mặt trăng thông qua kính viễn vọng ít nhất là từ 30 năm trước. Vì vậy, chúng ta có thể biết rằng, Mặt trăng đã có những thay đổi như thế nào giống như bề mặt Trái đất.

Ý tưởng tàu đổ bộ trông lên Mặt trăng sử dụng sức mạnh của những loài chim siêu khỏe của Francis Godwin.

Trong câu chuyện đầu tiên về chuyến du hành không gian trong văn học Anh, giám mục và nhà sử học Francis Godwin đã hình dung việc đặt chân lên Mặt trăng bằng một phương tiện có khả năng vượt trội, sử dụng sức mạnh của những loài chim siêu khỏe. Godwin đã tưởng tượng ra một con tàu đổ bộ có khả năng đưa con người lên Mặt trăng. Thư viện Quốc hội Mỹ đã lưu giữ một số hình ảnh về con tàu vũ trụ mà nhà sử học Godwin tưởng tượng ra.

Bức tranh thể hiện ý tưởng bay vào không trung bằng sức mạnh của pháo hoa của Cyrano de Bergerac.

Cyrano de Bergerac là nhà viết kịch nổi tiếng sống ở thế kỷ XVII đã xuất bản một cuốn sách viết về pháo hoa vào năm 1657. Bức tranh minh họa cho cuốn sách này cho thấy Bergerac đang đi dần lên trên không trung bằng một con tàu và xung quanh là những đám khói giống hệt như những gì xảy ra xung quanh việc phóng tên lửa vào không gian ngày nay.

Người Italy còn nảy ra ý tưởng làm thang máy để đi thẳng lên Mặt trăng. 

Thậm chí, tại Italy, vào giai đoạn từ những năm 1830 – 1840, người dân còn nảy ra ý tưởng về một thang máy không gian có thể đưa con người đặt chân lên Mặt trăng.

Chủ Nhật, 12 tháng 1, 2014

Giấc mơ kỳ dị của nhà tiên tri thế kỷ 21

Lên 9 tuổi đã có những giấc mơ tiên tri về các sự kiện xảy ra không lâu sau đó, ông là Juselino – nhà tiên tri độc đáo.

Nhà tiên tri Juselino sinh vào tháng 3 năm 1960 tại thành phố Maringa thuộc tiểu bang Parana của nước Brazil. Hiện ông là giáo viên tiếng Anh, vẫn sống thanh đạm cùng vợ và 4 người con gái tại vùng ngoại ô Sao Paulo. Từ lúc lên 9 tuổi (năm 1969) ông đã có những khả năng kỳ lạ khác người. Trong một giấc mộng, ông có thể trông thấy được 3 sự kiện và có lúc lên đến 9 sự kiện.

Juselino nói rằng những giấc mộng đến từ sự bất tri bất giác của ông. Ông không có khả năng tự chủ với các giấc mộng này. Vào lúc 19 tuổi, Juselino đã có dịp gặp nhà tiên tri nổi tiếng Francisco Shabiz, người đã 2 lần được đề nghị giải Nobel. Ông này là một người có đặc dị công năng, đồng thời cũng là một nhà từ thiện. Từ sau sự gặp gỡ này, Juselino đã dự đoán nhiều sự kiện giống như nhà tiên tri Vanga.

Juselino - nhà tiên tri thế kỷ 21. 

Chiêm tinh gia đương đại này đưa ra các mốc thời gian cụ thể với những dự đoán về xã hội loài người. Ông từng dự đoán nhiều sự kiện và các thảm họa đã xảy ra trên thế giới, bao gồm sự kiện 11/9, chiến tranh Iraq năm 2003 và sự bại trận của Tổng thống Saddam Hussein, việc ông ta bị bắt giữ và xử tội, trận động đất cùng sóng thần (tsunami) tại quần đảo Indonesia năm 2004, cái chết thảm của công nương Diana và sự tạ thế của đức Giáo hoàng John Paulo II năm 2005.

Ông là người rất thẳng thắn, công minh. Tất cả những lờì tiên đoán về những đại nạn phát sinh của ông đều ghi đầy đủ rõ ràng ngày tháng năm. Để tạo điều kiện cho bất cứ ai muốn xác thực tính chân thực của các dự đoán này, Juselino đã đem đăng ký các lời giải đoán trong Bưu Điện Brazil làm phương tiện xác minh khi cần.

Những dự đoán của Juselino đã liên tục phát sinh theo những giấc mơ. Nếu trong mộng, ông thấy được những chuyện mà đối tượng là cá nhân thì ông sẽ chỉ nói với riêng cá nhân đó thôi. Nhưng nếu đó là một vị nguyên thủ quốc gia hoặc người có địa vị cao, có sức ảnh hưởng rất lớn đến xã hội thì ngoài cá nhân người đó ra, Juselino cũng thông báo cho các cơ quan thông tin của nhà nước và quần chúng.

Juselino và những nhà tiên tri khác có chỗ không giống nhau là: những gì Juselino thấy được trong mộng thì hoàn toàn được bộc lộ và trực tiếp truyền đạt đến đương sự. Ngoài ra, những sự kiện được tiên đoán đều được công bố và có những chỉ dẫn rõ ràng cho những người nào muốn đến sao lục tìm tòi, kiểm chứng. Juselino cũng bỏ vào hồ sơ các bức điện tín mà ông đã gửi đến cho các đương sự. Thường thường Juselino phải mất từ 3 đến 4 giờ mỗi ngày để giải quyết việc sắp xếp các hồ sơ tiên tri này.

Có khi Juselino cũng phải chi trả nhiều tiền cho các dịch vụ đăng ký, đăng bộ, gửi thư, đánh fax mà tất cả tiền bạc đều chỉ từ bản thân cá nhân của Juselino, từ sự tiết kiệm tiền bạc trong cuộc sống thanh bần dạy học của ông.

Quay lại một sự kiện Juselino đã dự đoán trên thế giới và đã trở thành thực tế là việc ám sát công nương Dianna: Vào ngày 4 tháng 3 năm 1997, từ sở bưu điện Bazil, một thư cảnh cáo đã gửi cho Dianna. Trong thư, Juselino nói: “Tôi nhận được tin tức từ Thượng đế cho biết rằng có người ác ý đang sắp đặt mưu sát công nương bằng một tai nạn xe cộ. Bảy vị thiên sứ đã nói với tôi rằng, trong vụ tai nạn xe hơi này, sinh mạng của bà cũng sẽ không còn nữa. Các chuyên gia sẽ cho đó là một tai nạn bình thường, không phải là vụ ám sát, nhưng họ hoàn toàn sai lầm. Hung thủ là người thân cận của công nương. Việc này sẽ xảy ra trước năm 2000”.

Đồng thời Juselino cũng đem lời cảnh cáo này đến cho các tờ báo lớn nhất của nước Anh như Times, Daily Telegraph và Gardian. Nhưng tin tức này bị ém nhẹm, không được đăng tải trên các trang báo. 5 tháng sau đó, vào tháng 8 năm 1997, khi công nương Diana bị tai nạn xe hơi và qua đời đúng như lời Juselino, báo chí Anh mới làm rùm beng việc này lên.

Ảnh minh họa.

Mặc dù Juselino dự đoán rằng là việc này phát sinh ra trước năm 2000 nhưng ông đã có gửi cho tổng thống Brazil Cardodo 2 năm trước đó (thư này có đóng dấu đăng ký) rằng Vương phi Dianna sẽ bị tử nạn.

Ngày 26 tháng 10 năm 1989, Juselino gửi thư cảnh báo đến tổng thống Mỹ và lãnh sự quán Anh ở Mỹ. Trong thư này, Juselino nói rằng, vào năm 1993, Trung tâm thương mại thế giới sẽ bị tấn công lần thứ nhất, nhưng không xác định ngày tháng rõ ràng. Tuy nhiên, ông đã cho biết vụ tấn công lần thứ 2 vào ngày 11 tháng 9 năm 2001.

Đúng như dự đoán của Juselino, 3 năm sau đó, vào ngày 26 tháng 2 năm 1993, có một vụ nổ ở bãi đậu xe làm khá nhiều người chết. Và lần thứ hai, 12 năm sau, sự kiện 11/9 đã làm kinh động toàn thế giới. Thư cảnh báo này cũng có gửi cho Tổng thống Mỹ Bush ngày 28 tháng 10 năm 1989, và cho Bill Clinton. Trong thư cho Bill Clinton, Juselino trình bày sự quan tâm đến sự khủng bố tại Manhantan. Ông viết: “Hai toà nhà sẽ bị một quả cầu bao vây. Có thể có người sẽ xem đó là một trò đùa, không trở thành hiện thực, vì thế tôi mới gửi thư đến các tờ báo Mỹ để hy vọng được đăng tải”.

Trong giấc mơ, ông cũng đã nhìn thấy những vụ thiên tai kinh hoàng trên thế giới. Về cơn sóng thần tại đảo Sumatra ở Indonesia, ông đã có thư cảnh báo gửi đến đại sứ quán Ấn Độ tại Brazil vào ngày 30/4/1997, trước khi nó xảy ra gần 8 năm. Nguyên văn chi tiết của nội dung bức thư cảnh báo: “Trong giấc mơ tôi đã thấy vào ngày 26/12/2004, sáng sớm lúc 7 giờ, ở khu vực Nam châu Á sẽ bị một cơn địa chấn cường độ 8,9 độ ricshter tấn công, đồng thời sẽ có sóng thần cao 10 mét. Phạm vi ảnh hưởng bắt đầu từ tỉnh Ache của Indonesia, kéo dài đến các nước Ấn Độ, Malaysia, Srilanca, Thái Lan… Nhất định sẽ có hàng vạn người thiệt mạng”.

Và kết quả đúng như lời tiên đoán, địa chấn đã phát sinh vào ngày 26/1/2004 vào lúc 7 giờ 58 phút. Cơn sóng thần cao nhất đến 30 mét. Số người tử vong lên đến 200.000 người, trong đó nhiều người bị sóng thần cuốn mất tích. Đại sứ quán của các nước Indonesia, Philipines, Thái Lan và tổng thống của các quốc gia này cùng một lúc gửi thư cho ông để có lời cảm ơn (các văn kiện này được thị thực và đóng dấu).

Vị tổng thống Indonesia rất cảm kích: “Đối với địa chấn và sóng thần phát sinh trong năm 2004 như ông đã nói, có nhiều việc chúng tôi làm được, nhưng chúng tôi đã không làm gì”. Ngoài ra đại sứ quán Indonesia cũng cho biết thêm: “Chúng tôi đã truyền đạt nội dung lá thư của ông đến bốn quốc gia. Trong tương lai, nếu ông có những thông tin cần cho chúng tôi biết, xin ông cứ tự nhiên thông báo”.

Quả thật đáng tiếc, toàn bộ nội dung của thảm họa động đất và sóng thần xảy ra trong năm 2004 đã được ông cảnh báo trước đó gần 8 năm, nhưng không một quốc gia nào quan tâm để có thể có những biện pháp phòng tránh hiệu quả.

Juselino cũng đã tiên đoán và gửi thư cảnh báo về bệnh tình cũng như sự tạ thế của đức giáo hoàng John Paul Ii vào ngày 2/4/2005. Từ năm 2001 cho đến 2 tháng trước khi Giáo hoàng mất, ông đã gửi nhiều thư đến Ngài. Vào tháng 11/2004, tức 5 tháng trước sự cố này, ông có nói trong thư gửi đi như sau: “Rất tiếc là bệnh tình của ngài vào ngày 30/3/2005 sẽ nghiêm trọng hơn. Nếu cứ tiếp tục như thế thì có thể vào ngày 2/4/2005 sẽ vô phương cứu chữa”.

Nhà tiên tri này cũng tiếp xúc với các cá nhân và giúp họ tiên đoán phúc họa, nhưng không nhận thù lao. Ông có cuộc sống rất bình dị. Ngoài biệt tài tiên tri, ông còn có khả năng nói lưu loát và thông thạo tiếng Anh, Ba Lan, Đức. Ông học những ngôn ngữ này trong khi ngủ. Vì vậy, ông có thể viết thử gửi các vị nguyên thủ nhiều nước, các cơ quan truyền thông và những cá nhân khác bằng ngôn ngữ mà họ có thể hiểu được.

Thứ Năm, 9 tháng 1, 2014

Churchill từng lên kế hoạch chiến tranh thế giới III

Trong những ngày cuối của chiến tranh thế giới II, Thủ tướng Anh Winston Churchill đã phác thảo kế hoạch phát động chiến tranh thế giới III.

Theo kế hoạch của Thủ tướng Anh Winston Churchill, liên minh Anh-Mỹ sẽ tấn công nhằm đả bại Liên Xô. Vào ngày 8/5/1945, khi tất cả mọi người ở khắp nơi trên thế giới chuẩn bị cho việc kết thúc chiến tranh thế giới II, một nhân vật tầm cỡ đã lên kế hoạch bắt đầu cuộc chiến tranh thế giới III. Vết mực vẫn chưa kịp khô trong tài liệu đầu hàng của Đức khi Thủ tướng Anh Winston Churchill yêu cầu Nội các chiến tranh của Anh phác thảo kế hoạch xâm lược Liên Xô.

Thủ tướng Churchill đảm bảo với các tướng lĩnh cao cấp Anh rằng, cuộc xâm lược Liên Xô sẽ do Mỹ dẫn đầu và sẽ có sự hỗ trợ của quân đội Đức từng bị Hồng quân Liên Xô đánh bại.

Hình ảnh chụp Thủ tướng Anh Winston Churchill năm 1942, người vạch ra kế hoạch bắt đầu chiến tranh thế giới III. 

Tinh thần hiếu chiến của Thủ tướng Churchill là một trong số những yếu tố khiến ông muốn lên kế hoạch phát động cuộc chiến tranh thế giới III.

Trong cuộc chiến Winston, Max Hastings viết rằng Thủ tướng Churchill rất hài lòng khi nhìn thấy sự sụp đổ của phát xít Đức đã "gần như làm lu mờ hoàn toàn" chiến thắng của Liên Xô ở Đông Âu.

Tuy nhiên, đến năm 1945, Liên Xô đã mạnh mẽ hơn rất nhiều và nước Anh yếu thế hơn nhiều so với Thủ tướng Churchill đã dự đoán. Trong một bài phát biểu tại Hội nghị Yalta vào tháng 2/1945, ông Churchill phát biểu: "Một bên là con gấu lớn Nga, một bên khác là voi lớn Mỹ và nước Anh nhỏ bé bị kẹp ở giữa giống như con lừa”.

Quan điểm chống lại Liên Xô của Thủ tướng Churchill càng vững chắc hơn sau khi biết Mỹ gặt hái thành công trong chương trình bom nguyên tử.

Tham mưu trưởng lực lượng quân đội hoàng gia Anh, Tướng Alan Brooke cho biết rằng, Thủ tướng Churchill đã nói với ông tại Hội nghị Potsdam vào tháng 7/1945 rằng: "Chúng tôi có thể nói với Liên Xô rằng nếu họ cứ khăng khăng làm điều này hay điều kia thì chúng tôi chỉ có thể xóa xổ thành phố Moscow và sau đó Stalingrad, Kiev và Sevastopol".

“Chiến dịch không thể tưởng tượng”

Thủ tướng Winston Churchill (trái), Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt (giữa) và lãnh đạo Liên Xô Josef Stalin tại hội nghị Yalta năm 1945. 

Khi được hỏi nước Anh sẽ phải chuẩn bị những gì chỉ trong vài ngày sau khi kết thúc cuộc xung đột đẫm máu nhất trong lịch sử, các tướng Anh nghĩ rằng Thủ tướng Churchill thực sự rất quyết tâm làm nó.

Ông Brooke đã viết trong nhật ký của mình: "Thủ tướng Winston khiến tôi cảm giác thực sự sẽ xảy ra một cuộc chiến khác".

Các tướng đã vẽ lên một kế hoạch và có mã là “Chiến dịch không thể tưởng tượng”. Trong đó, kế hoạch đề xuất quân đội phương Tây tấn công Liên Xô trên một mặt trận kéo dài từ Hamburg ở miền Bắc đến Trieste ở phía Nam.

Nội các chiến tranh Anh liệt kê ra danh sách sức mạnh tổng thể của lực lượng đồng minh ở châu Âu vào ngày 1/7/1945: 64 sư đoàn của Mỹ, 35 sư đoàn của Anh và Dominion, 4 sư đoàn của Ba Lan và 10 sư đoàn của Đức. Tuy nhiên, các sư đoàn của Đức vẫn chưa vội vàng nhập cuộc chiến bởi họ mới bị Liên Xô đả bại. Sau khi huy động các nước đồng minh tham gia cuộc chiến trên, họ sẽ có trong tay tất cả 103 sư đoàn, trong đó có 23 sư đoàn thiết giáp.

Lực lượng đồng minh sẽ phải chống lại quân số hùng hậu của Liên Xô gồm 264 sư đoàn và 36 sư đoàn thiết giáp.

Xét về số lượng chiến đấu cơ, lực lượng Không quân Chiến lược của phe Đồng Minh ở Tây Bắc Âu và Địa Trung Hải có 6.714 máy bay chiến đấu và 2.464 máy bay ném. Trong khi đó, Liên Xô có 9.380 máy bay chiến đấu và 3.380 máy bay ném bom.

Sức mạnh đáng gờm của Liên Xô

Người Đức đã phát hiện ra rằng cuộc chiến chống lại Liên Xô chắc chắn không dễ dàng như đi bộ trong công viên. Nội các chiến tranh cho biết: "Quân đội Liên Xô đã thành lập trung tâm chỉ huy tối cao và có kinh nghiệm chiến đấu. Quân đội Liên Xô sống, hành quân tốt hơn so với quân đội phương Tây. Họ cũng là lực lượng sử dụng chiến thuật đánh táo bạo để có thể đạt được mục tiêu của mình".

"Trang thiết bị vũ khí của Liên Xô được cải thiện nhanh chóng trong suốt cuộc chiến và bây giờ chúng rất tốt. Chúng ta đủ thông tin để biết rằng vũ khí mà họ phát triển không hề thua kém so với các cường quốc. Các cơ sở sản xuất của Liên Xô đã cho thế giới thấy họ đạt được những thành công trong nghiên cứu và cải tiến các loại vũ khí và thiết bị hiện có cũng như đưa chúng vào dây chuyền sản xuất hàng loạt rất ấn tượng. Thậm chí, người Đức còn phải sao chép các tính năng cơ bản của vũ khí Nga", nội các Anh viết.

Trong bản đánh giá có chữ ký của Tham mưu trưởng lực lượng quân đội hoàng gia Anh, Tướng Alan Brooke vào ngày 9/6/1945 kết luận rằng: "Cuộc chiến tranh thế giới III sẽ vượt quá khả năng của nước Anh để giành chiến thắng trong cuộc tấn công “đánh nhanh rút gọn” và chúng ta sẽ phải tiến hành cuộc chiến trường kỳ với sự rủi ro khá cao. Tham vọng đánh bại Liên Xô của nước Anh sẽ tan thành bong bóng nếu như Mỹ chán nản và không quan tâm đến cuộc chiến đó nữa. Và họ bắt đầu rút dần khỏi cuộc chiến và bị hút vào nam châm chiến tranh ở Thái Bình Dương".

Đây là rocket V2.

Vào ngày 10/6/1945, Thủ tướng Churchill trả lời vấn đề trên: "Nếu lực lượng Mỹ rút quân về nước và di chuyển đến Thái Bình Dương, Liên Xô sẽ có đủ sức mạnh tiến quân đến Biển Bắc và Đại Tây Dương. Do đó chúng ta hãy cầu nguyện để chúng ta có kế hoạch bảo vệ quốc gia”.

Về vấn đề này, các tướng nhận định Liên Xô có thể cố gắng tấn công các hòn đảo của Anh sau khi họ đến Đại Tây Dương. Họ sẽ cắt thông tin liên lạc đường biển, xâm lược, tấn công trên không và sử dụng tên lửa hoặc các phương pháp chiến đấu mới.

Trong khi chính quyền Anh kiểm tra khả năng này thì họ cũng lo lắng về viễn cảnh một mối đe dọa tiềm ẩn khác: "Có thể, không quân Liên Xô sẽ cố gắng tấn công tất cả các mục tiêu quan trọng của Anh với các máy bay chiến đấu hiện có của mình".

Rocket sẽ đặt ra mối đe dọa lớn đối với Anh: “Quân đội Liên Xô có khả năng sử dụng các vũ khí mới chẳng hạn như các máy bay không người lái, rocket.... Chúng ta có thể sẽ phải hứng chịu đòn tấn công nặng nề của Liên Xô hơn cả khi họ đối phó với quân đội Đức (ví dụ như rocket V-2)", Tham mưu trưởng lực lượng quân đội hoàng gia Anh, Tướng Alan Brooke cho hay.

Tham vọng đả bại Liên Xô tiêu thành mây khói

Nội các chiến tranh của Anh nhận định rằng, kế hoạch đó vượt quá khả năng của 103 sư đoàn quân Đồng minh ở châu Âu, giống như quân đội Napoleon và Hitler cũng thất bại. Trong nhật ký của ông Brooke có ghi: "Ý tưởng trên tất nhiên là rất tuyệt vời, nhưng cơ hội thành công dường như là không thể. Không còn nghi ngờ gì về việc từ nay trở đi Liên Xô là nước mạnh ở châu Âu mà không phải ai cũng có thể dễ dàng động thủ".

Cuối cùng, các tướng lĩnh của Anh lên kế hoạch đến Mỹ gặp Tổng thống Harry Truman và mang về câu trả lời là Washington sẽ không giúp Anh trong kế hoạch đó, hãy tự làm một mình. Do đó, chiến dịch mà Thủ tướng Anh thời đó vẽ ra đã phải khép lại.

Thứ Tư, 8 tháng 1, 2014

Sự thực giật mình về người Trung cổ

Một số người vẫn lầm tưởng nhiều điều về cuộc sống thời Trung cổ. Thực tế ra sao?

1. Người dân thời Trung cổ lười tắm


Một số người có những hiểu lầm tai hại về cuộc sống thời Trung cổ. Một trong số những quan niệm sai lầm đã tồn tại bấy lâu, đó là người dân thời ấy thường làm đám cưới vào tháng 5 hoặc tháng 6 bởi đó là lần duy nhất trong năm họ dành thời gian cho tắm táp… Nhưng trên thực tế, vào thời Trung cổ, người dân rất sạch sẽ, không hề bốc mùi do lười tắm. Họ tắm gội cẩn thận trước những buổi đến nhà thờ hay những dịp tế lễ quan trọng…Thêm vào đó, hầu hết các thị trấn đều có nhà tắm công cộng ngoài các nơi tắm rửa như sông, hồ...

Người dân sống rất sạch sẽ và biết giữ gìn vệ sinh cá nhân. Thậm chí, việc tắm rửa còn được lồng ghép vào nhiều nghi lễ quan trọng hay làm điều đó trước khi cử hành nghi lễ để có cơ thể sạch sẽ đón nhận may mắn từ thần linh. Có người tắm rửa hàng ngày, một số khác thì ít hơn, nhưng phần lớn mọi người đều rất ý thức về vệ sinh cá nhân.

Một trong những bằng chứng chứng minh con người thời kỳ đó sạch sẽ và thơm tho chính là xà phòng đã xuất hiện vào thời điểm có vẻ xa xưa này. Họ dùng nó để tắm và giặt giũ quần áo.

Đặc biệt, họ đã biết cách sử dụng nước nóng vào việc tắm rửa cho cơ thể sạch sẽ. Người Pháp còn để lại một câu nói nổi tiếng bằng tiếng Latinh rằng: “Venari, ludere, lavari, bibere; Hoc est vivere!”, có nghĩa là “Đi săn, chơi bời, tắm rửa, uống rượu, vậy mới là sống!”.

2. Người dân thời Trung cổ thô lỗ, ngu dốt



Sau khi xem những bộ phim về thời kỳ này, nhiều người cho rằng, người dân thời Trung cổ rất sùng đạo và ngu dốt. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của các nhà khoa học, quan niệm này hoàn toàn sai lệch.

Cụ thể, khoa học và triết học là những lĩnh vực cực kỳ phát triển trong thời điểm bấy giờ. Một phần là vì các nước xây dựng rất nhiều trường đại học ở khắp châu Âu.

Thêm vào đó, không thể phủ nhận thời Trung cổ là thời kỳ để lại nhiều tác phẩm vĩ đại nhất cho nhân loại, đặc biệt là trong các lĩnh vực nghệ thuật, âm nhạc và văn học. Dược phẩm thời đó còn khá mới mẻ nhưng bước đầu đã tạo được nền tảng cho sự ra đời của những loại thuốc chữa bệnh cho người đau yếu. Nhờ đó, y học hiện đại mới tiếp thu được thành tựu của thời kỳ trước và cho ra đời những loại dược phẩm cũng như phương pháp điều trị như hiện nay.

Như vậy, không khó để khẳng định, con người thời Trung cổ rất thông minh và có những sáng tạo vượt bậc trong một số lĩnh vực và để lại những tài sản vô giá cho nhân loại.

3. Án tử hình rất thông dụng


Một số nhà làm phim đã sản xuất các tác phẩm tái hiện cuộc sống của người dân thời Trung cổ, trong đó có việc tội phạm thường xuyên bị xử tử nơi đông người để răn đe những người khác. Tuy nhiên, trên thực tế, hệ thống hành pháp đã xuất hiện từ thời Trung cổ. Những phiên xử án khá công bằng đối với mọi đối tượng cho dù họ là thường dân hay người giàu có và không có ngoại lệ. Trong số các mức án thời Trung cổ, án tử hình được xem là nghiêm trọng nhất. Chỉ những kẻ phạm tội giết người, phản quốc hay cố ý gây hỏa hoạn mới phải chịu mức án này.

Một sự thực nữa là những vụ xử tử không diễn ra ở nơi đông người. Phương pháp hành hình chủ yếu là treo cổ phạm nhân. Trong khi đó, hình thức hỏa thiêu tưởng chừng rất thông dụng lại ít khi được dùng tới và chỉ áp dụng với những người đã bị treo cổ chết trước đó.

4. Lượng lớn người dân thời Trung cổ chết vì đói



Một trong những hiểu lầm khác của hậu thế về cuộc sống thời Trung cổ là có nhiều người dân phải sống trong tình trạng đói khát, thiếu chất dinh dưỡng dẫn đến mất mạng. Nhưng thực ra bữa ăn của họ khá phong phú và đầy đủ chất dinh dưỡng. Cụ thể, nông dân thời đó thường ăn cháo và bánh mì tươi hàng ngày. Đặc biệt, họ còn biết cách làm ra bia và sử dụng nó như đồ uống giải khát, khiến cơ thể dễ chịu hơn.

Ngoài ra, họ cũng làm thịt những con vật nuôi trong trang trại và sử dụng nó làm đồ ăn, cùng với pho mát và các loại rau củ quả tự trồng.

Họ nuôi nhiều loại gia súc như gà, vịt, lợn, chim bồ câu, ngỗng… nên những con vật này cũng trở thành món ăn được bày trên bàn của người dân.

5. Người nông dân có cuộc sống cực khổ, không có nhiều hoạt động giải trí


Một số người cho rằng, nông dân thời Trung cổ chỉ biết làm việc quần quật suốt ngày trên đồng ruộng hết mùa này sang mùa khác, tới mức không có thời gian để vui chơi, giải trí, thư giãn đầu óc. Nhưng thực tế là nông dân thời đó thường xuyên tổ chức các lễ hội, gồm: lễ hội truyền thống và lễ hội tôn giáo. Vào những dịp đó, họ vui vẻ, phấn khởi tham gia những hoạt động như nhảy múa, tổ chức các trò chơi dân gian và các cuộc thi đấu.

Trong số đó vẫn còn một số trò chơi tồn tại tới ngày nay như đánh cờ, chơi xí ngầu...Nếu so sánh với những trò tiêu khiển trong xã hội hiện đại, chúng có phần kém hấp dẫn và không phong phú bằng, nhưng đó là niềm vui rất giản đơn và bình dị của họ.

Thứ Ba, 7 tháng 1, 2014

Giải mã hoang tưởng của Pol Pot về Việt Nam

Phát động chiến tranh chống Việt Nam, không hiểu từ căn cứ nào Pol Pot có một niềm tin mãnh liệt rằng Việt Nam quân đông nhưng rất yếu.

Việt Nam và Campuchia từ trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã có tình đoàn kết chiến đấu. Tuy nhiên, khi kháng chiến chống Mỹ vừa kết thúc, tập đoàn Khmer đỏ liền phản bội. Chúng đã đưa quân đánh sang biên giới Việt Nam gây xung đột rồi phát triển thành chiến tranh tổng lực. Xuất phát từ đâu mà Pol Pot trở mặt như vậy?

Dưới bàn tay tàn ác của chế độ Pol Pot, hàng triệu người dân Campuchia đã bị thiệt mạng. Ảnh tư liệu.

Chúng ta hãy đọc bản nghị quyết ra hồi tháng 6/1977 của tập đoàn Pol Pot: “Duôl (An Nam) sau chiến tranh còn gặp nhiều khó khăn chồng chất, kinh tế kiệt quệ, chính trị thì nội bộ mâu thuẫn, ở miền Nam chính quyền chưa vững, tàn quân và tổ chức chính trị chống đối của Thiệu còn nhiều, đang hoạt động phá hoại…

Về quân sự, Duôl có quân đội mạnh, có kinh nghiệm chiến đấu, trang bị phương tiện nhiều, song sau khi thống nhất thì tinh thần quân đội sút kém…. Tuy mạnh về quân sự nhưng yếu về chính trị, đang gặp nhiều khó khăn nên không đủ sức mạnh đánh lại chúng ta…Về chiến lược thì bị kiềm chế, không dám tấn công sâu qua đất nước Kampuchia…”
Thiếu tướng Bùi Cát Vũ trong thiên ký sự Đường vào Phnom Penh kể rằng, ông đã đọc được bản nghị quyết của tập đoàn Pol Pot. Ông có nó từ một sĩ quan Campuchia.

Từ năm 1975, Pol Pot đã cho quân tấn công các đảo Thổ Chu, Phú Quốc hòng chiếm đảo. Sang các năm 1976, 1977,1978 chúng lại liên tiếp tấn công suốt một dải biên giới của ta với quy mô trung đoàn, sư đoàn. Đây rõ ràng là một cuộc chiến tranh tổng lực của địch chứ không phải là xung đột biên giới.

Bộ đội Việt Nam trên đường phố Phnom Penh. Ảnh tư liệu. 

Trong khi quân Khmer đỏ mặc sức tung hoành ở biên giới thì xuất phát từ thiện chí hòa bình, Nhà nước ta trong các năm 1976, 1977 vẫn kiên trì giải quyết vấn đề bằng biện pháp hòa bình. Trong chỉ đạo bộ đội, cấp trên cũng chỉ thị cho các đơn vị ở tuyến trước chỉ đánh địch trên đất ta và cố gắng bắt sống, giết ít thôi. Nói về giai đoạn này, tướng Bùi Cát Vũ trong tập ký sự Đường vào Phnom Penh đã ví von một hình ảnh rất hay đó là “Ta mới chỉ được phép đánh địch bằng cánh tay trái thôi”.

Nhưng ta càng thiện chí hòa bình thì địch càng lấn tới. Thiện chí của ta làm địch càng tin vào nhận định của chúng trong nghị quyết nói trên. Từ đây chúng đi thêm một bước nữa, quyết tiến hành một cuộc chiến tranh tiêu hao trường kỳ với ta.

Theo Wikipedia, ngày 1 tháng 2 năm 1978, Trung ương Đảng Cộng sản của Pol Pot họp bàn chủ trương chống Việt Nam và quyết định thành lập 15 sư đoàn. Trong nghị quyết của họ có ghi: "Chỉ cần mỗi ngày diệt vài chục, mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn thì có thể đánh 10, 15, đến 20 năm. Thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2 triệu người Campuchia để tiêu diệt 50 triệu người Việt Nam".

Đại tá Nguyễn Văn Hồng, nguyên sư đoàn trưởng sư đoàn 309 trong chiến tranh biên giới Tây Nam đã đọc vị âm mưu thâm độc của tập đoàn Pol Pot trong cuốn hồi ký Cuộc chiến tranh bắt buộc: “Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, nền an ninh của Việt Nam luôn bị đe dọa. Những tưởng sau khi đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, không có một tên xâm lược dám đụng đến Việt Nam.

Song, sau khi Đế quốc Mỹ rút khỏi nước ta, bè lũ tay sai thất bại hoàn toàn, thì kẻ thù mới lại xuất hiện. Đó là tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xa-ri-Khieu Xamphon. Chúng là đội quân xung kích, tay sai của một số nước trong khu vực, tiến hành xâm lấn biên giới và lãnh thổ nước ta. Mục đích của chúng là tìm mọi cách hạn chế sự lớn mạnh của một nước Việt Nam thống nhất; bằng cách là tiêu hao tiền của, sinh lực của chúng ta.

Bộ đội Việt Nam rút về nước sau khi đã giúp nước bạn xây dựng chính quyền và quân đội vững mạnh. Ảnh tư liệu.

Gây ra cuộc chiến tranh biên giới, chúng thừa biết là sẽ không đánh bại được Việt Nam, nhưng chúng buộc chúng ta phải duy trì một lực lượng quân sự hùng hậu, từ đó không còn khả năng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.

Bọn tay sai đã từng tính toán rằng: nếu lực lượng quân sự của Việt Nam duy trì quân số khoảng trên 2 triệu người, trải ra khắp đất nước, mỗi ngày, mỗi người lính tiêu thụ khoảng 20 USD (bao gồm cả súng đạn, lương thực, thực phẩm, thuốc men, quân trang, quân dụng), thì nước Việt Nam sẽ kiệt sức hoàn toàn sau vài năm chiến tranh. Đây là con số tính toán thấp nhất, theo tiêu chuẩn Việt Nam. Nhưng chúng đã lầm. Người Mỹ trước đây cũng đã từng tính toán như thế và họ đã thất bại hoàn toàn”.

Kết quả là khi những người cách mạng chân chính của Campuchia nhận rõ bộ mặt tàn ác của tập đoàn Pol Pot, họ đã lãnh đạo dân chúng nổi dậy và kêu gọi sự giúp đỡ của quân đội Việt Nam. Trên tinh thần giúp bạn là tự giúp mình, ngày 22/12/1978, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã mở chiến dịch phản công lớn đánh sang tận sào huyệt của kẻ địch. Chỉ trong 2 tuần, quân ta đã đánh tan phần lớn lực lượng Pol Pot và tiến vào giải phóng Phnom Penh. Ngày nay kỷ niệm 35 năm “Ngày chiến thắng chế độ diệt chủng ở Campuchia (7/1/1979)”, chúng ta tự hào vì đã giúp nhân dân Campuchia vượt qua một giai đoạn lịch sử đen tối.

Những tội ác không tưởng tượng nổi của Khmer đỏ

Có những thi thể bị xẻ làm đôi. Các cô giáo trẻ bị chúng xé nát quần áo, hãm hiếp, thọc tầm vông, cán búa vào cửa mình cho đến chết.

Ngày 7/1/1979, đất nước Campuchia được giải phóng. Với những người lính tình nguyện Việt Nam đã sống, chiến đấu dũng cảm bảo vệ quê hương và giải cứu đất nước Chùa Tháp khỏi nạn diệt chủng tàn bạo nhất thế kỷ 20, đó là những “năm tháng ăn cơm nhà đi lo việc quốc tế” không thể nào quên.

Trong những ngày đi tìm tư liệu về cuộc chiến và những người lính Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia nghĩa vụ quốc tế tại đất nước Chùa Tháp, tôi đã được gặp ông Đinh Trọng Vinh, cựu chiến binh Sư đoàn Bộ binh 9, Quân đoàn 4 – Binh đoàn Cửu Long anh hùng. Năm nay đã 62 tuổi, ông sống cuộc đời bình dị trong một căn nhà nhỏ ven tỉnh lộ 477, Nho Quan, Ninh Bình, hàng ngày vui thú với ruộng vườn.

Tham gia quân ngũ từ năm 1972 đến đầu năm 1987 ra quân, ông Vinh đã đi qua cả hai cuộc chiến. Những ngày chiến dịch Hồ Chí Minh thần tốc cho đến những trận đánh trong chiến tranh biên giới Tây Nam đều có mặt ông. Đối với ông Vinh, cuộc chiến đấu chống lại bọn Pol Pot có lẽ còn khốc liệt hơn nhiều so với chiến tranh chống Mỹ cứu nước.

Trực tiếp cầm súng chiến đấu và chiến thắng, ông được chứng kiến tận mắt sự tàn bạo hơn cầm thú của chế độ diệt chủng Khmer Đỏ.

Thời gian ấy, thế giới gần như mù tịt với tội ác diệt chủng của bọn Pol Pot cho đến khi quân đội ta vén màn bí mật. Một sự thật kinh hoàng hé lộ khi có hơn 2 triệu người dân Campuchia đã bị chính quân của Pol Pot giết hại dã man.

Bất cứ bộ đội quân tình nguyện Việt Nam nào chiến đấu chống lại tập đoàn ác thú này cũng đều tận mắt chứng kiến những tội ác kinh hoàng như vậy. Những hố chôn người, những đống thi thể thối rữa, những cánh đồng chết phủ trắng đầu lâu... vẫn còn ám ảnh họ.

Với những người lính, cuộc chiến đấu bắt đầu từ những năm 1976, 1977 khi Khmer Đỏ tiến hành gây hấn, đánh sang Việt Nam tàn sát hàng nghìn người dân vô tội. Ông Vinh đã cùng những đồng đội của mình trực tiếp cầm súng bảo vệ quê hương.

Thời kỳ năm 1977, 1978 mới là ác liệt nhất trong cuộc đối đầu với Pol Pot. “Giai đoạn 1977-1978, quân dân ta thương vong nhiều vì lúc đó Nhà nước mình đang yêu cầu một giải pháp chính trị, cho nên quân đội chỉ được chốt giữ ở biên giới để phòng giữ chứ không được tiến công địch. Nhưng ta cứ chốt ở đâu thì địch bu bám đến đánh phá chỗ đó, thậm chí chúng còn luồn sang đất ta để đánh từ sau lưng các đơn vị chốt giữ biên giới”, ông Vinh cho biết.

Năm 1975, đất nước hoàn toàn giải phóng, bản thân ông Vinh cũng như những đồng đội của mình cứ tưởng chiến tranh đã qua đi, ông sẽ được trở về quê hương lao động sản xuất, xây dựng cuộc sống mới.

Tập đoàn Pol Pot đã quay ngoắt, tỏ ra có thái độ thù địch với chúng ta. Chúng tuy chưa gây chiến chính thức nhưng cũng đã có những hành động dọa dẫm hoặc đánh lén nhỏ lẻ suốt một giải đất biên giới Tây Nam.

Chứng tích tội ác của Khmer đỏ.

Bộ đội đã sơ tán dân. Đã có cả chục vạn cư dân sát biên giới được sơ tán vào trong, nhưng đi được thời gian, thấy tình hình yên ổn, người dân lại tìm về. Lúc đó, ông Vinh đang thuộc biên chế của Tiểu đoàn 3, Sư đoàn 9. Để tiến hành phòng thủ, đơn vị của ông được điều lên đóng quân tại Thị xã Tây Ninh vào tháng 3/1977.

Bất ngờ, vào lúc 0h15 phút ngày 25/9/1977, đúng vào dịp toàn dân Việt Nam chuẩn bị Tết trung thu, tập đoàn Pol Pot mở cuộc tiến công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta. Chỉ riêng Tây Ninh, chúng đã tấn công trên một đoạn biên giới dài hơn 200km, sâu vào nội địa tỉnh nhà 10km, trong phạm vi 7 xã thuộc 3 huyện Tân Biên, Châu Thành và Bến Cầu.

Chúng đốt phá nhà cửa, trường học, cướp của, tàn sát đồng bào ta rất dã man. Trong đó, xã Tân Lập, huyện Tân Biên là nơi chúng tập trung đánh phá nặng nề và ác liệt nhất.

Chúng tổ chức thành 9 mũi lén lút bao vây tấn công nhiều điểm thuộc 5 ấp: Tân Khai, Tân Chánh, Tân Thạnh, Bảy Bàu và Chằng Riệc của xã Tân Lập. Chúng chia một lực lượng để bao vây, khống chế các đồn biên phòng, các chốt và vị trí quân sự của ta. Đại bộ phận còn lại tràn vào làng tàn sát đồng bào.

Nhận được tin, Sư đoàn 9 cấp tốc hành quân về Tân Lập. Chỉ trong vòng 2 ngày, chúng ta nhanh chóng đánh bật quân Khmer Đỏ ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, tất cả những gì còn lại, chỉ là những đống hoang tàn đổ nát.

Đinh Trọng Vinh cùng các đồng đội đã tìm thấy một số ít dân chúng sống sót, gồng gánh chạy loạn, họ bàng hoàng kể lại, tựa như chưa bao giờ chứng kiến những tội ác man rợ đến như vậy.

Bọn ác thú sử dụng các loại vũ khí từ đao, búa, chỉa đến các loại súng, lựu đạn… để tàn sát người dân. Hành động của chúng vô cùng man rợ như: chặt đầu, chặt tay chân, chặt người ra nhiều khúc, mổ bụng, moi gan, xé xác trẻ em ném vào lửa, đập đầu hãm hiếp phụ nữ, mổ bụng phụ nữ có thai, cắt cổ lấy máu, rạch miệng, ném xác người xuống giếng, chôn sống, tàn sát tập thể nhiều gia đình.

592 người dân vô tội ở Tân Lập đã bị chúng sát hại, những thi thể la liệt, chất chồng khắp nơi. Những đám cháy bốc lên mùi thịt người khét lẹt.

Đôi chân của ông Vinh như muốn khụy xuống khi bước vào trường tiểu học Tân Lập. Hiện trường vụ thảm sát đẫm máu vẫn còn nguyên: Xác những cô giáo trẻ, các em học sinh bị lính Khmer Đỏ sát hại nằm ngổn ngang trên sân trường. Chúng không bắn mà dùng sạc lai (một loại dao phát cỏ) và búa đập đầu, cắt cổ. Có những thi thể bị xẻ làm đôi. Các cô giáo trẻ bị chúng xé nát quần áo, hãm hiếp, dùng dao xẻo vú, thọc tầm vông, cán búa hoặc nhét đất đá vào cửa mình cho đến chết.

Quá căm phẫn với những gì đang hiện hữu, ông Vinh như nghe thấy văng vẳng tiếng gào thét đau đớn của những nạn nhân. Họ chết mà không kịp nói lời cuối cùng với bạn bè, người thân.

Họ đã đau đớn đến thế nào khi bị cuốc bổ, dao đâm hay kiếm chém trước khi trút hơi thở cuối cùng? Họ đã xót xa đến thế nào khi tận mắt nhìn thấy những người thân yêu của mình, con cái, vợ, chồng mình bị hành quyết trước khi đến lượt chính mình?

Tiếng khóc đau thương của những người còn sống sót, nỗi căm hờn và uất ức của họ tưởng thấu tới tận trời xanh.

Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2014

Nền văn minh Maya ra đời như thế nào?

Những công trình xây dựng khổng lồ của người Maya, được phát hiện ở Seibal, đã cung cấp nhiều thông tin quý giá về sự khởi đầu của nền văn minh này.

Từ hàng chục năm nay, có hai giả thuyết nổi lên trong các tranh luận về sự hình thành nền văn minh Maya. Theo giả thuyết thứ nhất, nền văn minh này tự tiến hóa trong các cư dân thuộc cái gọi là Khu vực trung tâm (vùng đất thấp bao gồm phần đất phía nam Mexico, phía bắc Guatemala và Belize). Giả thuyết thứ hai nói rằng nền văn minh Maya hình thành trên cơ sở những tác động của nền văn minh Olmec.

Ảnh minh họa. 

Trong giai đoạn năm 1000- 700 trước Công nguyên, khi tại Khu vực trung tâm bắt đầu xuất hiện những khu định cư lớn đầu tiên, xã hội Olmec đã là xã hội phát triển rực rỡ. Chính từ lý do đó mà nền văn minh Olmec được coi là “văn hóa mẹ đẻ” của người Maya, hoặc nói theo cách khác là nguồn sáng tạo văn hóa dưới dạng thể chế chính trị hay phong cách nghệ thuật.

Chẳng hạn trung tâm La Venta của người Olmec trên vịnh Mexico có các phong cách kiến trúc giống như phong cách kiến trúc của người Maya ở Seibal (thuộc Guatemala ngày nay). Vì thế, nói nghệ thuật Olmec là nguồn cảm hứng sáng tạo cho các cư dân Seibal là có cơ sở.

Kim tự tháp cổ Phetan của người Maya. 

Trên tạp chí “Science” số ra mới đây, nhóm các nhà khảo cổ học từ Mỹ và Nhật Bản dưới sự dẫn dắt của Takeshi Inomata và Daniel Triadan (Trường Đại học Arizona ở Tucson, Mỹ) đã giới thiệu thành quả 7 năm nghiên cứu của họ ở Seibal.

Những kết quả này thật sự khiến giới khoa học chú ý. Dưới các lớp trầm tích dày đến 18 m, các nhà khảo cổ học đã phát hiện phần còn lại của một công trình kiến trúc mang tính tôn giáo. Xác định niên đại bằng phương pháp đồng vị carbon cho thấy công trình này hình thành vào khoảng năm 1000 trước Công nguyên, tức là 200 năm trước khi La Venta trở thành trung tâm lớn với các công trình xây dựng khổng lồ. Điều đó có nghĩa là La Venta không thể là khuôn mẫu chính cho Seibal.

“Công trình chủ đạo ở Seibal bao gồm quảng trường, kim tự tháp hoặc đàn tế phía tây cùng đồi nhỏ phía đông. Hệ thống như vậy được gọi là Nhóm E và có thể thấy nó hiện diện tại phía nam vùng Mesoamerica” - Nhà khảo cổ học Inomata giải thích.

Nhiều nhà nghiên cứu không muốn xếp công trình liên hợp ở La Venta vào Nhóm E; tuy nhiên Inomata lại có ý kiến ngược lại. Điều đáng chú ý là trong các trung tâm lâu đời hơn của người Olmec, chẳng hạn như San Lorenzo, không có những công trình kiến trúc giống như vậy.

Kết quả nghiên cứu ở Seibal cho thấy Nhóm E bắt nguồn từ những công trình xây dựng không lớn, có độ cao khoảng 2 mét. Tuy nhiên qua nhiều thế kỷ chúng lại được tái tạo và mở rộng về diện tích, trở nên ngày càng đồ sộ hơn, cho đến khoảng năm 700 trước Công nguyên thì những công trình này đã là những kim tự tháp với chiều cao 6-8 mét.

Theo nhà khảo cổ học Inomata, các công trình thuộc Nhóm E ở La Venta và Seibal dường như được sử dụng cho những mục đích giống nhau. “Các nghi lễ tôn giáo rất quan trọng đối với những nền văn minh đó. Tại quảng trường ở Seibal chúng tôi đã tìm thấy khá nhiều vật cúng tế, thông thường là những chiếc rìu bằng đá cẩm thạch hoặc các loại đá quý khác” - Inomata cho biết.

Những lễ vật này cũng được tìm thấy tại những trung tâm khác, trong đó có hai khu khảo cổ ở Chiapas có cùng niên đại với những công trình xây dựng ở Seibal.

Các nhà nghiên cứu nhấn mạnh, phát hiện của họ chứng tỏ rằng nền văn minh Maya ra đời sớm hơn nền văn minh Olmec và tiến hóa độc lập với nền văn minh này. Theo Inomata những công trình xây dựng cổ đại ở Seibal cho thấy nền văn minh Maya hình thành qua sự tiếp xúc với các tộc người khác nhau. “Chúng tôi thấy ở đây một dạng kiến trúc mới, phản ánh dạng xã hội và trật tự xã hội mới. Trật tự xã hội mới này không hình thành tại một trung tâm, chẳng hạn như bờ biển Olmec, mà xuất hiện do kết quả của sự giao tiếp giữa các tộc người khác nhau” - Nhà khảo cổ học Inomata giải thích.

Thứ Năm, 2 tháng 1, 2014

Giải bí ẩn xác ướp thiền sư 500 năm tuổi

Giới khoa học đã đưa ra nhiều giả thuyết thú vị về thuật tự ướp xác của xác ướp thiền sư 500 năm tuổi.

Xác ướp 500 năm tuổi này là thiền sư Sangha Tenzin. Đây là một trong những hiện vật mà các nhà khoa học tìm được ở tu viện Key Gompa (hay Ki, Kye, Kee) thuộc thung lũng Spiti, nằm giữa Ấn Độ và Tây Tạng vào năm 1975. Theo giới khảo cổ, nó là tu viện cổ kính và lớn nhất ở thung lũng Spiti thuộc Himachal Pradesh. Đây còn là cái nôi đào tạo tu sĩ và có khoảng 300 vị Lạt Ma tu hành tại tu viện trên.

Sau khi tìm thấy xác ướp còn nguyên vẹn với cả phần da khô đi, tóc vẫn còn nguyên trên đầu, răng, móng tay còn đầy đủ… các nhà khoa học đã đưa ra những giả thuyết về cách ướp xác kỳ bí của vị thiền sư này.

Xác ướp của thiền sư Sangha Tenzin còn nguyên cả răng, tóc trên đầu, xương rất chắc.

Một số người đưa ra giả thuyết rằng thiền sư Sangha Tenzin đã trải qua quá trình hiếm hoi là ướp xác tự nhiên hay tự ướp xác.

Ướp xác tự nhiên là trường hợp rất hiếm gặp. Nó đòi hỏi phải đáp ứng được những điều kiện khắc nghiệt như nhiệt độ cao và không khí khô ráo để bảo vệ thi thể. Hầu hết những xác ướp mà con người nhìn thấy (ở trong sách giáo khoa và viện bảo tàng) đều trải qua quá trình ướp xác bằng phương pháp hóa học và sau đó được bọc trong vải lanh.

Nhưng các nhà tu hành Phật giáo ở Nhật Bản và Tây Tạng có một phương pháp độc đáo để ướp xác. Đó là khi các nhà sư còn sống, họ bắt đầu một quá trình ăn ít đi và thực đơn cũng thanh đạm hơn trước. Họ không tiếp tục ăn lúa mạch, gạo và đậu vì những thứ này khiến chất béo trong cơ thể tăng lên. Thêm vào đó, để chuẩn bị cho ngày biên tịch, nhà sư dùng những cây nến cháy để gần da để chúng khô lại. Thông qua phương pháp đặc biệt đó, thi hài của nhà sư được bảo quản tốt hơn.

Công việc ướp xác vẫn chưa dừng lại ở đó, những nhà tu hành còn sống sẽ đặt thiền sư đã viên tịch vào trong một căn phòng dưới lòng đất trong 3 năm cũng như tiếp tục làm khô bộ xương trước khi trải qua công đoạn cuối cùng dùng nến để có xác ướp "hoàn hảo". Kết quả là thi thể của nhà sư có hình dáng của những bức tượng đặt trong đền chùa dùng để cầu nguyện.

Các nhà khoa học tìm thấy ít nhất là 30 xác ướp của các nhà tu hành trên thế giới, hầu hết đều thuộc các hòn đảo lớn của Nhật Bản là Honshu áp dụng phương pháp này.

Trong khi đó, các nhà nghiên cứu phương Tây lại căn cứ từ những phân tích bộ xương nhận định rằng, có thể vị thiền sư trên đã uống một loại độc tố đặc biệt, để vi trùng không phát triển khiến xác teo nhỏ lại và biến thành xác ướp.


Xác ướp của thiền sư 500 năm tuổi được khai quật vào năm 1975.

Giả thuyết khác được các nhà khoa học đưa ra đó là vào những tháng cuối cùng trước khi viên tịch, vị thiền sư Sangha Tenzin không hề ăn uống. Điều này sẽ khiến lượng mỡ, thịt trong cơ thể của nhà sư giảm đi. Đây chính là nguyên nhân gây ra tình trạng thối rữa và phân hủy ở những xác ướp.

Từ đó, các bộ phận trong cơ thể thiền sư sẽ dần quắt và khô se lại. Chưa dừng lại ở đó, thiền sư còn tự quấn dây vào cổ, nối với đùi, tay của mình trước khi chết. Khi thiền sư viên tịch, sợi dây đã giữ cho cơ thể nhà tu hành đạo Phật này giữ nguyên trong tư thế ngồi bó gối.

Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu lại đưa ra giả thuyết khác rằng, thiền sư Sangha Tenzin sử dụng một phương pháp ngồi thiền mà ít người biết nên đã giữ được xác ướp của mình tốt như vậy. Theo cách lý giải này, thiền sư tự buộc một sợi dây từ sớm. Nó có nhiệm vụ giữ cho vị tu sĩ ngồi ngay ngắn, thẳng và ngồi thiền tập trung cao độ nhất, không bị phân tán bởi những tác động bên ngoài. Nếu như thiền sư thả lỏng cơ thể thì nút dây vòng qua cổ sẽ siết chặt lại khiến ông khó thở.

Thêm vào đó, môi trường có tác động rất lớn đến xác của thiền sư. Bởi lẽ, môi trường xung quanh khô ráo khiến cho vi khuẩn ít có cơ hội phát triển, sinh sôi nảy nở nên xác ướp được bảo quản một cách hoàn toàn tự nhiên.

Hiện xác ướp 500 năm tuổi của thiền sư Sangha Tenzin được trưng bày tại một ngôi đền ở Gue, cách khu vực thung lũng Spiti khoảng 3,2 km. Ngôi đền rộng mở đón khách tham quan đến chiêm ngưỡng và tìm hiểu về xác ướp đặc biệt này.

Thứ Tư, 1 tháng 1, 2014

Khám phá bất ngờ về tàu cổ biến mất hơn 300 năm

Các nhà thám hiểm tin rằng, họ đã tìm thấy một phần của con tàu Griffin trước khi nó biến mất vào 334 năm trước.

Những thợ lặn mới phát hiện được một thanh gỗ dài gần 3,4m nằm dưới đáy hồ Michigan, Mỹ. Họ tin rằng nó có thể là một phần của con tàu Griffin và những phần còn lại có lẽ bị chôn vùi sâu dưới lớp bùn. Chính vì vậy, họ sẽ sử dụng những thiết bị hiện đại, mạnh mẽ hơn để thăm dò xem có thứ gì đó bị chôn sâu dưới lớp bùn không.

Thợ lặn kiểm tra thanh gỗ dài gần 3,4m nằm dưới đáy hồ Michigan và tin rằng đó là một phần của con tàu Griffin mất tích từ 334 năm trước.

Tuy nhiên, các chuyên gia Mỹ và Pháp cho rằng bây giờ vẫn còn quá sớm để nói đó là một phần của con tàu đắm Griffin.

Con tàu này được đóng theo lệnh của nhà thám hiểm huyền thoại người Pháp Rene Robert Cavelier de la Salle. Griffin bắt đầu hành trình từ Niagara Falls đến vịnh Green thuộc hồ Michigan. Tuy nhiên, nó đã biến mất trên đường trở về vào năm 1679.

"Sau khi chúng tôi thám hiểm khu vực đó trong nhiều ngày, nhiều người đã gọi điện và đến tận nhà chúng tôi để hỏi xem đã tìm được gì. Chúng tôi đã thấy gì? Thậm chí, họ mong muốn chúng tôi tiết lộ những thông tin thú vị về đợt thám hiểm này. Mọi người thực sự quan tâm và đang vui mừng trông ngóng xem ở dưới đáy hồ có phải là con tàu đắm huyền thoại hay không”, ngư dân Larry Barbeau cho biết. Ông là người phụ trách thiết bị thám hiểm quan trọng của các nhà khoa học bao gồm cả dây truyền sinh cung cấp oxy cho thợ lặn thuộc đoàn thám hiểm.
Tàu Griffin mất tích năm 1679 khi nó đi qua Great Lakes. Nó trở thành một trong những bí ẩn hàng hải lớn nhất từ trước đến nay.

Nhóm thám hiểm có khoảng 40 thành viên bao gồm các nhà khảo cổ, nhà sử học, thủy thủ đoàn, thợ lặn, một đội thủy thủ làm nhiệm vụ cứu hộ và giúp đỡ các hoạt động liên quan. Khi không ở dưới nước, họ sống trong khu nhà và lều nằm bên hồ của ngôi làng Fairport. Đây là trong một trong những nơi xa xôi nhất ở bán đảo Upper, Michigan.

Giám đốc Sở nghiên cứu khảo cổ học dưới nước của Pháp Michel L'Hour cho biết, sau quá trình tìm kiếm, các nhà thám hiểm ngày càng tin rằng, đó đúng là xác của con tàu đắm 334 năm về trước.

"Chúng tôi chưa bao giờ nhìn thấy một cột gỗ dựng đứng và dài như thế này. Vì vậy, có thể hy vọng rằng chúng tôi đã tìm ra một phần của con tàu bị mất tích bí ẩn", ông L'Hour chia sẻ.

Nhà thám hiểm Rene Robert Cavelier de la Salle là người ra lệnh đóng con tàu này nhưng không có mặt trên Griffin khi nó biến mất.

Nhà khảo cổ Rob Reedy sống ở thành phố Morehead, North Carolina và Misty Jackson ở Leslie, Michigan cũng đến đây và sàng lọc những tài liệu tìm thấy trong vùng trầm tích. Họ xem xét lỹ lưỡng các cổ vật từ đại bác bằng đồng cho tới chiếc rìu hoặc con dao, bất cứ thứ gì có thể giúp họ xác định đó là một con tàu.