Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 28 tháng 4, 2014

Nguyên nhân nào khiến đế chế La Mã suy yếu?

Các sử gia cho rằng, nguồn nước nhiễm độc chì khiến đế chế La Mã hùng mạnh dần suy yếu và sụp đổ.

Một số sử gia cho rằng nguồn nước nhiễm độc chì ở xã hội La Mã cổ đại đã gây ra một số bệnh như bệnh gút (gout). Nó đã khiến đế chế hùng mạnh một thời này dần dần suy yếu và sụp đổ.

Gần đây, một nhóm nghiên cứu, chuyên gia khoa học đã tìm hiểu nguồn nước của người La Mã bị nhiễm độc chì như thế nào. Kết quả nghiên cứu mới trên được công bố trong bản báo cáo của Viện hàn lâm khoa học.

Các chuyên gia từng đau đầu không biết lý do vì sao mà hệ thống cống dẫn nước trọng lực của người La Mã dẫn tới các nhà tắm công cộng khiến cho sức khỏe người dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tuy nhiên, giới chuyên gia đã phát hiện có sự lắng đọng trầm tích ở hải cảng Portus. Nơi đây từng là một trong những địa điểm tập trung rất đông người dân sinh sống trong thời cổ đại cũng như giai đoạn đầu của thời Trung Cổ.

Ống dẫn nước La Mã thời cổ đại. 
Nhóm nghiên cứu đã phân tích lớp trầm tích lấy từ hạ lưu hải cảng Portus đến Rome và trầm tích tại một kênh thông với sông Tiber. Các nhà nghiên cứu so sánh các đồng vị chì có trong hai mẫu trầm tích trên và phát hiện ra lịch sử nhiễm độc chì ở La Mã.

Hàm lượng chì trong trầm tích lắng đọng lấy từ hải cảng Portus được cho là có mối liên hệ với lịch sử một số cuộc đấu tranh giành quyền kiểm soát hải cảng, trong đó có cuộc chiến giữa người Gothic với đế chế Byzantine (năm 536 - 552). Cuộc chiến tranh giành quyền kiểm soát hải cảng Portus đã gây ra thiệt hại đáng kể cho hệ thống cống dẫn nước trọng lực ở Rome vào giữa thế kỷ 9.

Nhà nghiên cứu Kristina Killgrove thuộc ĐH West Florida không tham gia nghiên cứu này đã tiến hành kiểm tra phân tích ảnh hưởng của chì đến sức khỏe người dân La Mã thông qua việc tìm kiếm những đồng vị của chì có trong các bộ xương ở nghĩa trang cổ đại thuộc Gabii.

Nhà nghiên cứu Killgrove nhận định: "Nhiễm độc chì có thực sự gây ra sự sụp đổ của Đế chế La Mã? Có lẽ là không nhưng có thể thấy lượng chì được sản xuất ở La Mã đã tăng đáng kể trong thời cổ đại. Tuy nhiên, thông tin trên không thể đưa ra kết luận nguồn nước bị nhiễm độc chì dẫn đến toàn bộ người dân của đế chế La Lã bị đầu độc".

Thứ Năm, 24 tháng 4, 2014

Chân dung “thánh sống” tàng hình, đi xuyên vách ở Ẩn Độ
Satyanarayana Raju có thể dùng tay không lấy ra từ không khí những đồ vật một cách dễ dàng như: chén đĩa, vải vóc, thức ăn, sách vở đến cả cái gối, tổ chim, rễ câỵ hay bông hoa… Raju còn có thể đi xuyên qua vách tường, nhìn xuyên qua sắt, gỗ, đất, đá mà không hề hấn gì.


Người đàn ông với quyền năng siêu thườngThời gian gần đây, tờ Indian Express của Ấn Độ có ghi chép lại một trường hợp lạ về người đàn ông có nhiều khả năng kỳ diệu. Ngay sau đó câu chuyện kỳ lạ này được đăng tải trực tiếp trên Naturalcureforall, Imovies4you và Youtube.

Nhân vật chính trong câu chuyện này là Satyanarayana Raju (Ấn Độ). Anh có thể dùng tay không lấy ra từ không khí những đồ vật một cách hết sức tự nhiên, dễ dàng. Thoạt nghe ai cũng nghĩ đó chỉ là trò lừa bịp, một trò diễn xiếc, ảo thuật không hơn không kém.

Raju chỉ cười: “Rồi mọi người sẽ nhanh chóng bị thuyết phục. Nào ông bà, anh chị, các bạn muốn tôi lấy vật gì nào?”. Trước hàng nghìn người, Satyanarayana Raju đã làm theo lời yêu cầu của bất cứ ai muốn lấy trong không khí thứ đồ vật gì.

Những thứ mà nhiều người yêu cầu anh lấy ra rất đa dạng, có vật dễ nhưng có khi là những vật mà vào thời gian đó khó tìm thấy. Không chút khó khăn, Raju vẫn dễ dàng lấy ra được trước sự ngạc nhiên, thán phục của những ai tận mắt chứng kiến. Khán giả cầm trên tay vật mà họ yêu cầu Raju lấy ra từ không khí, tỏ rõ thái độ sửng sốt: “Ồ không! Điều này khó có thể tin được. Nhưng anh Raju đã chứng minh khả năng đó là có thật”.

Theo tài liệu trình bày về các khả năng phi thường đầy biến hóa của Raju thì từ ngày bộc lộ tài năng, anh đã lấy được từ không khí ra hàng vạn đồ vật khác nhau như: từ bát đĩa, xoong nồi, bông hoa, vải vóc, thức ăn, sách vở, dép guốc và cả những thứ ít người nghĩ đến như cái gối, tổ chim, rễ câỵ, bông hoa…

Ngoài ra, Raju còn có thể nhìn xuyên qua sắt, gỗ, đất, đá mà không hề hấn gì. Các nhà khoa học từng nghiên cứu thừa nhận rằng, Raju có đôi mắt như tia X có thể nhìn xuyên qua lớp bê tông dày, két sắt, những tấm nguyên liệu dày bằng gỗ nhựa, giấy trong đó bao gồm cả cuốn danh bạ điện thoại.

Raju thậm chí có thể ngồi ở vị trí A và để đi đến vị trí B, rồi trở lại mô tả tất cả những gì đang xảy ra tại vị trí B, tỷ lệ thông tin chính xác tới hơn 90%.

Kỳ lạ, tất cả những cuộc kiểm tra mắt của Raju đều cho kết quả bình thường, không có bất cứ biểu hiện khác thường. Có lần, trước sự chứng kiến của một đám đông đến mấy nghìn người, Raju bước xuyên qua một tấm gương chắn trước mặt, nhanh, gương không một mảnh vỡ, nứt và bản thân anh cũng không một vết xước nào.

Raju có khả năng tàng hình hay chăng giống như những nhân vật trong thế gới của khoa học viễn tưởng, người ngoài hành tinh?

Là hiện thân của vị thánh sống Sudeih Babu?
Tại Ấn Ðộ vào năm 1910 có ghi nhận một nhân vật có khả năng phân thân và tàng hình. Nhân vật đó chính là Sudeih Babu, có tài liệu gọi là Sai Baba.

Sudeih Babu có rất nhiều khả năng lạ lùng như có thể lấy những đồ vật ở xa, nhìn xuyên qua các vật cản bằng chính đôi mắt của mình mà không cần bất cứ một sự hỗ trợ nào. Người dân nơi đây truyền tai nhau về khả năng của Sudeih Babu. Và họ cũng rủ nhau đi xem tài năng biểu diễn của ông mỗi lần ông trổ tài của mình.

Dĩ nhiên, ngoài sự thán phục, mắt tròn mắt dẹt, họ cũng không nói thêm được điều gì. Năm 1918, không hiểu nguyên nhân vì sao, Sudeih Babu đã mất. Tám năm sau vào ngày 23 tháng 11 năm 1926, tại một tỉnh ở Ấn Độ có một đứa trẻ ra đời tên là Satyanarayana Raju.

Theo lời mẹ của Raju, từ khi thụ thai, mang thai tới khi sinh ra Raju tất cả đều bình thường, diễn ra tự nhiên như bao đứa trẻ khác. Đến khi đứa bé Raju biết nói, cậu đã tự nhận mình là hiện thân của vị thánh sống Sudeih Babu. Người trong làng và ngay cả cha mẹ của cậu bé cũng không hiểu cậu ta nói gì vì quả thật ít người còn nhớ lại vị thánh sống Sudeih Babu.

Thời gian sau có một ông lão đi qua làng nghe chuyện lạ mới tìm đến gia đình của cậu bé, sau khi hỏi ngày sinh tháng đẻ của cậu bé, ông lão gật gù nói: Trước đây, tại Ấn có một người tên là Sudeih Babu, người này có nhiều phép lạ và được người Ấn trong vùng gọi là thánh sống.

Trước khi qua đời, vị thánh sống này đã trối trăn lại rằng, tám năm sau, đúng vào ngày 23 tháng 11 - ngày ông sinh ra, ông ta sẽ lại tái sinh. Cháu bé này chính là hiện thân của Sudeih Babu.

Tuy nhiên, mặc dù khả năng kỳ lạ của Raju sau này không thua kém Sukeih Babu, người mà Raju tự nhận là tiền thân của mình nhưng vẫn còn nhiều người không tin anh chính là vị thánh sống ngày xưa của xứ Ấn.

Để chứng minh lời của ông lão trên và của Raju, dân làng đã quyết định đưa ra những lần thử. Trước mặt các chức sắc, người dân trong làng đến rất đông, nhiều người đã thi nhau yêu cầu Raju chứng minh qua tài năng mình là hiện thân của Sudeih Babu. Raju đã mỉm cười, đồng ý.

Không chút do dự, Raju đưa cao 2 tay lấy từ trong không khí hai nắm lớn hoa trắng rồi thả hoa rơi xuống sàn sân khấu. Kỳ lạ thay, các hoa trắng này đã tức thì nối kết lại thành một dòng chữ. Đó là tên của vị thánh sống Ấn Độ ngày xưa Sudeih Babu. Sự việc diễn ra trước sự theo dõi trực tiếp của hàng nghìn đôi mắt. Đến lúc này, không ai là không tin.

Ngoài ra, các tư liệu đề cập đến Satyanarayana Raju còn có nhiều chi tiết rất lạ. Ngay lúc còn bé, Raju không chịu ăn thịt mà chỉ thích ăn chay. Thường ngày nhìn những người đói khổ đi ăn xin bằng đôi mắt thương xót, cậu bé đầy lòng từ tâm đã luôn mang gạo và thức ăn trong nhà cho những người này.

Tồn tại “giác quan liên đới” đặc biệt?
Theo những ghi chép thì từ xưa đến nay, không hiếm những con người kỳ lạ có khả năng nhìn thấy hoặc nghe rõ ở những khoảng cách xa đến hàng vạn dặm.

Điều đó chứng tỏ: Năng lực con người là không giới hạn. Và điều kỳ lạ là càng ngày trên thế giới càng xuất hiện nhiều những con người có khả năng siêu đẳng lạ lùng vượt xa hẳn những khả năng mà con người thường có được.

Những con người ấy không phải là những vị cao tăng, những vị đạo sư, những người sống trên núi non hay rừng rậm hoang vu dày công tu luyện. Những người ấy đang ở ngay trên thành phố văn minh hiện đại hay trên những đất nước mà những gì được gọi là “siêu linh huyền bí” đều bị coi là mê tín dị đoan, nhảm nhí.

Những con người kỳ lạ ấy có khả năng tạo ra những nguồn điện lực mạnh mẽ phát sinh từ cơ thể, từ đôi mắt, từ đôi bàn tay hay cả thân mình. Có người có thể dùng năng lực điện trường của mình để sưởi ấm người khác hay làm cho tuyết tan. Có người dùng nhân điện ấy để chữa bệnh hay có thể đốt cháy những vật mà họ chạm vào…

Vào thời kỳ khoa học chưa phát triển để có thể lý giải được hiện tượng đó thì nhiều người coi họ như thể những nhân vật thần thoại từng được miêu tả trong truyện cổ tích, những câu chuyện về thần tiên, ngay cả trong truyện “Tây Du Ký” với những con người có thiên lý nhĩ (nghe từ xa nghìn dặm) và thiên lý nhãn (nhìn từ xa nghìn dặm)...

Trở lại trường hợp của Satyanarayana Raju, các nhà khoa học đã đến quan sát và tìm hiểu. Khi được hỏi rằng do đâu mà Raju có thể lấy được các đồ vật trong không khí? Họ mới chỉ đưa ra giả thuyết rằng: Sự thật chẳng có gì là khó khăn khi ta biết rằng trong vũ trụ không gian tích trữ các chất cấu tạo nên mọi vật.

Chúng ta được cấu tạo từ những hạt rất nhỏ, các nguyên tử và phân tử. Xa hơn, nguyên tử bao gồm lớp vỏ điện tử và các quark tạo nên hạt nhân. Tác dụng hút hấp dẫn sẽ làm cho chúng tiến lại gần nhau, đến mức, tất cả sẽ thu hẹp dần trở thành một viên kẹo và cứ thế nhỏ mãi.

Một hình ảnh ví von sinh động như, thay cho các ngôi sao trong một không gian hầu như trống rỗng là một bát súp nóng, nhung nhúc các hạt cơ bản như điện tử, nơ-tri-nô, các quark, photon. Vì thế muốn có được chúng, ta chỉ cần lấy từ trong không khí, sự việc tự nhiên như ta thò tay lấy vật dụng trong tủ vậy thôi.

Đây là giả thuyết dựa trên các nguyên lý của khoa học vật lý. Điều đặc biệt là, chính bản thân Raju cũng rất đồng tình với lời giải thích trên của các nhà khoa học.

Còn theo quan điểm của các chuyên gia y tế cảm thấy vô cùng hiếu kỳ trước khả năng siêu phàm của Satyanarayana Raju, nhưng lại không có cách nào lý giải được hiện tượng kì lạ này. Chỉ có một phán đoán cho rằng, Raju mang trong mình một loại “giác quan liên đới” đặc biệt.

Thông thường thì những người có giác quan này sẽ cảm nhận được những điều hoàn toàn kì diệu sau khi trải qua những tác động kích thích từ bên ngoài ví như: ngửi hoặc nếm mùi vị hay nghe thấy một điệu nhạc… sẽ cảm giác như mình đang nhìn thấy một màu sắc, sự chuyển động của vật đó.

Như vậy, nếu bất kỳ ai không tận mắt chứng kiến những gì Raju đã làm mà chỉ nghe qua lời kể lại thì chắc chắn sẽ cho đó là chuyện vô lý, huyễn hoặc, không thể nào tin được, câu chuyện chỉ thấy ở những nhân vật viễn tưởng, những màn ảo thuật sau cánh gà.

Nhưng ngay cả các nhà khoa học từ Nga, Ðức, Pháp, Hoa Kỳ… đến Ấn Ðộ và tận mắt xem qua những gì mà Raju đã làm thì đều phải kinh ngạc. Họ thừa nhận rằng quả thật Raju là một người hoàn toàn bình thường, nhưng những khả năng hiện tại của anh thì chưa thể lý giải được. Nó vẫn còn là bí ẩn, thách thức các nhà khoa học.

Thứ Ba, 22 tháng 4, 2014

Sự thực ít biết về Tượng thần tự do NewYork ở Hà Nội xưa

Tượng nữ thần tự do nay là một biểu tượng của thành phố NewYork nói riêng và nước Mỹ nói chung. Nhưng ít ai biết Hà Nội từng có một phiên bản của bức tượng này.

Người Mỹ nói chung và người dân NewYork nói riêng coi tượng thần tự do là biểu tượng đáng tự hào của họ. Nhưng thật ra, đây lại là tác phẩm của các nhà kiến trúc, điêu khắc Pháp thế kỷ 19. Năm 1875, chính phủ Pháp đã đặt hàng kiến trúc sư Bartholdi một bức tượng để tặng cho chính phủ Mỹ nhân kỷ niệm 100 năm ngày quốc khánh Mỹ. Phải mất gần 10 năm, Bartholdi mới hoàn thành công trình tượng thần tự do khổng lồ với khối lượng 204 tấn này. Năm sau, tượng được đưa lên tàu chiến Mỹ đem về đặt ở cảng New York.

Sau khi trao cho chính phủ Mỹ tượng thần tự do, người Pháp cũng tạo thêm một vài phiên bản nhỏ hơn nhiều để đem dự triển lãm. Một trong số những phiên bản đó được đem sang triển lãm ở Việt Nam năm 1887 và sau đó, được tặng cho thành phố Hà Nội. Bức tượng mang sang Hà Nội cao 2,5m làm bằng đồng. Vì tượng mặc áo lòe xòe nên người dân gọi nôm na là tượng bà đầm xòe.

Lúc đầu, tượng được đặt ở vườn hoa trung tâm gần tòa công sứ (nay là vườn hoa Lý Thái Tổ). Sau đó, vào năm 1891, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương muốn thay vào đó tượng Pôn Be (paul Bert) - viên toàn quyền Đông Dương đầu tiên, nên đã hạ tượng bà đầm xòe xuống. Trong lúc còn chờ xây dựng bệ đá đặt tượng Pôn Be và tìm vị trí mới đặt tượng bà đầm xòe, cả hai bức tượng bị hạ xuống nằm chỏng trơ trên nền cỏ. Nhân đó, người Hà Nội đặt câu vè để chế diễu:

“Ông Pôn Be lấy bà đầm xòe
Trước nhà kèn ò e í e”


Sau nhiều cuộc tranh cãi, cuối cùng, chính quyền thực dân Pháp ở Hà Nội quyết định đặt tượng bà đầm xòe trên nóc tháp Rùa mà họ gọi là ngôi đền nhỏ. Bức tượng được đặt ở đó từ năm 1891 đến 1896. Mặt tượng hướng về phía đông tức là khu vực vườn hoa Lý Thái Tổ ngày nay. Sau năm 1896, một lần nữa người ta lại di dời bức tượng này về vườn hoa Cửa Nam.

Ảnh chụp tháp rùa với tượng bà đầm xòe được đặt trên nóc.

Tháng 7/1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp, chính phủ Trần Trọng Kim được quân Nhật dựng lên. Ở Hà Nội, cụ Trần Văn Lai được bổ nhiệm làm thị trưởng. Là một người yêu nước, cụ Lai đã cho đổi lại tên hầu hết các con phố Hà Nội từ những tên của Pháp sang tên các danh nhân nước Việt mà cụ biết. Đồng thời với hành động đó, cụ Lai cũng ký quyết định cho giật đổ nhiều tượng đài tàn tích của thực dân Pháp. Một trong số chúng là tượng bà đầm xòe ở vườn hoa Cửa Nam.

Như vậy, so với “người anh em” của mình bên Mỹ, tượng bà đầm xòe đã không thể yên ổn ở một chỗ. Ít nhất nó đã phải ba lần di chuyển. Và trong khi tượng thần tự do ở Mỹ trở thành một biểu tượng để người dân nước này tự hào thì tượng bà đầm xòe là thứ khiến cho người Việt căm ghét vì nó gắn với sự xâm lăng của bọn thực dân.

Những thứ tự do, bình đẳng, bác ái giả hiệu mà bọn thực dân nêu ra khi xâm lăng nước Việt không thể ru ngủ người Việt. Bởi thế, chúng chẳng thể đặt bức tượng lòe bịp ấy ở yên một chỗ lâu dài.

Người Việt ta có tính tiết kiệm, phàm cái gì đã hư hỏng cũng đều cố tận dụng để làm việc khác. Từ khi thứ nghề “đồng nát” ra đời, những vật hỏng quá không còn giá trị sử dụng thì đem bán đồng nát cho đỡ phí của. Và tượng bà đầm xòe cũng được người Việt cho đi theo truyền thống. Đó là thanh lý đồng nát.

Cụ thể, năm 1952, dân làng Ngũ Xã – một làng có nghề đúc đồng nổi tiếng ở Hà Nội, có ý định đúc một bức tượng phật A Di Đà, họ đã xin mua lại hai bức tượng trên để lấy đồng. Pho tượng A Di Đà này cao 3,95m, nặng hơn 12 tấn được đánh giá là hoàn hảo, không hề có một chút sai sót nào về kỹ thuật đúc và là pho tượng A Di Đà bằng đồng đầu tiên ở Việt Nam.

Hiện tại tượng ông Pôn Be và bà đầm xòe đã nằm trong pho tượng phật A Di Đà ở chùa Ngũ Xã.

Vậy là tượng ngài Pôn Be với “bà đầm xòe” – đại diện cho cái tự do giả hiệu ở xứ An Nam bị nấu chảy để đúc nên tượng phật A Di Đà với gương mặt hiền từ luôn cảm thông, cứu vớt những nỗi đau trần thế. Sự kết thúc của pho tượng nữ thần tự do ở Việt Nam có thể là vô tình hay hữu ý của những người thợ đúc. Tuy nhiên, nó rất hợp với bản sắc văn hóa truyền thống của người Việt. Truyền thống đó là luôn tiếp thu văn hóa bên ngoài để làm giàu nền văn hóa của dân tộc nhưng cũng luôn bài trừ rất mạnh những yếu tố văn hóa đi cùng các đội quân xâm lược.

Minh chứng cho điều này, ta có thể ví dụ: học thuyết Nho giáo đã phát triển từ trước Công Nguyên ở Trung Quốc, tuy nhiên, suốt gần 1.000 năm người Hán thống trị nước Nam, dù dùng vũ lực để ép người Việt học văn hóa Hán, ăn mặc giống người Hán mà kết quả vẫn chẳng được bao nhiêu. Nhưng từ khi người Việt lấy lại độc lập thì lại chủ động tìm học Nho giáo và tạo ra một thời vàng son của chế độ khoa cử. Nhiều trí thức Việt khi sang phương Bắc đối đáp về Nho giáo, Khổng học khiến triều đình Trung Quốc phải kính nể. Đó là một minh chứng rất rõ ràng về khí phách kiên cường bất khuất của người Việt Nam.

Thứ Hai, 21 tháng 4, 2014

Lời tiên tri đáng kinh ngạc trong Chiến tranh thế giới II

Người ta nói nguy hiểm càng đến gần thì càng nhiều nhà tiên tri xuất hiện. Thật vậy, trong Chiến tranh thế giới II đã có những tiên tri chính xác đến kinh ngạc.

Mô tả chiến tranh thế giới trước 20 năm
Trung tuần tháng 8 năm 1918, một người làm công tác thời sự tin tức của Mỹ tên là Lec-rơ viết một bài với tựa đề “Cuộc chiến tranh năm 1938” đăng trên tạp chíMọi người. Lúc đó cuộc Chiến tranh thế giới I đã bước vào giai đoạn cuối. Quân Đức đã bị chặn đứng ở bờ sông Nile vào tháng 7.
Ngày 8/8/1918, ở chiến dịch Yamen, Đức lại bị đánh lui nhiều lần. Thêm vào đó, nước Mỹ đã cử tướng Panchang đem quân tham chiến. Những dấu hiệu của sự kết thúc chiến tranh đã hiện rõ. Chỉ sau 2 tháng kể từ khi bài báo trên được đăng, vào ngày 11/11, Chiến tranh thế giới I đã chính thức kết thúc.

Quân đội phát xít Đức trong Thế chiến II. Ảnh: Internet

Trong bối cảnh nước Đức đã đầu hàng và chấp nhận bồi thường chiến phí, Lec-rơ lại đưa ra một quan điểm hoàn toàn khác. Ông cho rằng trừ khi đập tan hoàn toàn hy vọng phục hồi của Đức, nếu không nó sẽ trỗi dậy, dùng cuộc chiến tranh to lớn hơn để mang tai họa cho loài người.

Đáng kể là Lec-rơ khẳng định năm 1938 sẽ bùng nổ một cuộc chiến. Tác giả bài viết này đã mô tả về sự chuẩn bị chiến tranh của Đức như sau: Nước Đức bắt đầu bí mật chỉnh đốn lại quân đội. Với một quy mô lớn, tàng trữ vật tư cho chiến tranh, lại còn thực hiện chế độ phân phối theo định lượng trong cả nước.

Thời gian cứ từng năm trôi đi, đã có tin tức tiết lộ ra, nước Đức đã bí mật tàng trữ được rất nhiều vũ khí đạn dược. Các nhà khoa học Đức cũng đã phát minh được rất nhiều loại vũ khí mới. Khiến người ta kinh sợ là hội bắn súng của Đức, nghe đâu là cơ sở huấn luyện quân sự cho thanh niên, số người tham gia các môn thể thao lên tới 5 vạn, thì ra là diễn tập quân sự biến tướng.

Ngoài ra còn có hiệp hội bay, lan rộng khắp cả nước. Ngoài huấn luyện kỹ thuật bay, còn tăng thêm phần luyện tập tác chiến rất nghiêm ngặt để nâng cao hiệu quả tác chiến thực tế.


Nước Đức có một đội quân đông tới 20 triệu, đã chuẩn bị sẵn sàng để hành động. Trong lúc cả châu Âu không hề có sự chuẩn bị, thì chỉ 3 tuần lễ là đã có thể sụp đổ. Nước Anh sẽ bị chiếm đóng sau khi bị tập kích bằng không lực, chỉ còn nước Mỹ và các vùng tự trị hải ngoại của nước Anh để chống lại quân địch. Đó là đêm của người Phổ, đêm “đại cáo thành công”.
Sau này, các sự thực lịch sử đã chứng tỏ bài báo của Lec-rơ đã tiên tri rất đúng những sự kiện diễn ra hơn 20 năm sau đó. Thật là một điều đáng kinh ngạc.

Lec-rơ chỉ sai ở mấy điểm là: Thứ nhất năm 1939 mới bắt đầu chiến tranh so với dự đoán 1938 của ông. Thứ hai quân Đức không lấy được cả châu Âu trong 3 tuần.

Nhưng ở các điểm còn lại, dự đoán của Lec-rơ chính xác không sai một li. Nước Đức đúng là đã tổ chức quân đội đông đảo, tàng trữ nhiều vũ khí và vật tư cho chiến tranh. Binh sĩ và phi công Đức đúng là đã được huấn luyện tại các doanh trại thanh niên và hội bắn súng, hội phi hành để che mắt các nước châu Âu. Các nhà bác học Đức cũng đã được huy động để chế tạo nhiều vũ khí mới cho chiến tranh.

Tiên tri sự kiện Trân Châu Cảng và cái chết của Ru-dơ-ven

Vào năm 1941 trước khi Nhật đánh úp Trân Châu Cảng 3 tháng đã có một vị hội trưởng giáo hội phổ biến Bapharốp tiên tri về điều này. Ông này tên là Đômốt xec kary.

Năm 1941, diễn viên Uynxớt tổ chức một vũ hội gia đình ở Amanda (nước Mỹ). Vì muốn tăng thêm không khí vui vẻ cho vũ hội, cô đã cho mời Kary (vốn quen biết nhau từ trước) tới để tiến hành một cuộc biểu diễn tiên đoán.

Tổng thống Mỹ Ru-dơ-ven. Ảnh: Internet. 

Khi Kary đã trùm mắt và bước vào trạng thái sẵn sàng tiếp chuyện, Uynxớt bèn hỏi: “Nước Mỹ rồi đây có tham chiến không? Nếu có thì bao giờ?”. Kary trả lời: “Dù nước Mỹ muốn hay không, đều phải tham chiến. Bởi vì chỉ trong vòng 3 tháng, Nhật Bản sẽ đánh úp Trân Châu Cảng”.

Uynxớt lại hỏi tiếp: “Chiến tranh ở châu Âu và châu Á còn kéo dài mấy năm nữa?” - “Năm, sáu năm nữa”. Câu trả lời khiến mọi người ồ lên vì lúc đó nước Pháp đã đầu hàng không còn kháng cự còn nước Anh thì miễn cưỡng, cố chống đỡ mấy tháng. Theo những người có mặt ở đó thì chiến tranh sẽ sớm kết thúc với phần thắng thuộc về Đức chứ sao có thể kéo dài tới 6 năm?

Một người khác đặt câu hỏi thu hút sự quan tâm của mọi người: “Nếu nước ta tham chiến thì có thể bị thua không?”. Kary trả lời: “Sự tham chiến của nước Mỹ có thể đưa tới thắng lợi cho quân đồng minh, thế nhưng nước Mỹ sẽ xảy ra chuyện không may: Tổng thống Ru-dơ-ven, trong nhiệm kỳ thứ 4 này, sẽ qua đời trước lúc mãn nhiệm”.

Vào năm 1941, Tổng thống Ru-dơ-ven còn đang ở nhiệm kỳ thứ 3, việc ông có ra tranh cử nhiệm kỳ 4 hay không còn là một ẩn số thế mà Kary nói ông sẽ qua đời trong nhiệm kỳ thứ 4.

Tuy nhiên thực tế sau đó chứng minh những tiên tri của Kary là hoàn toàn đúng. Ngày 7/12/1941, Nhật Bản đã tấn công Trân Châu Cảng. Đến năm 1945, sau 6 năm đánh nhau, Chiến tranh thế giới II đã kết thúc. Tổng thống Ru-dơ-ven cũng qua đời trước khi Chiến tranh thế giới kết thúc ở nhiệm kỳ thứ 4.

Bài viết có sử dụng tư liệu của cuốn sách: "157 hiện tượng bí ẩn trên thế giới" của Nxb Thanh Niên.

Bí mật chấn động về “đại gia” thời đồ đá

Hàng loạt phát hiện mới khi khai quật các ngôi mộ của thời kỳ xa xưa cho thấy, đã xuất hiện những người thuộc tầng lớp "siêu giàu".

Những ngôi mộ cổ nói lên lịch sử


Bấy lâu nay, các cuốn sách đều viết rằng, xã hội có giai cấp bắt đầu được hình thành từ thời kỳ đồ đồng, đồ sắt. Còn trước đó, trong thời kỳ đồ đá, con người sống trong xã hội cộng sản nguyên thủy. Tuy nhiên, những nhà khảo cổ học mới đây đã chứng minh được rằng, sự bất bình đẳng trong xã hội loài người đã xuất hiện sớm hơn chúng ta thường nghĩ rất nhiều.

Nghiên cứu kết quả của những cuộc khai quật trên khắp châu Âu đã cho thấy, phân chia giàu nghèo tại châu lục này đã có từ trước cả khi người Ai Cập cổ đại xây kim tự tháp khoảng 5.000 năm. Trong những ngôi mộ cổ có niên đại cách ngày nay 7.000 năm, người ta đã tìm thấy các dấu tích chứng tỏ rằng, trong giai đoạn đầu của thời kỳ đồ đá mới, một số nông dân có đất canh tác và công cụ tốt hơn những người khác.

Những thứ đồ xa xỉ này đã được tùy táng theo họ. Đó là những lưỡi rìu, dao, đầu mũi tên bằng đá. Một số đồ trang sức thô sơ như vòng đá, khuyên tai đá được tìm thấy chứng tỏ chủ nhân bộ xương từng là "đại gia" ở thời của họ.

Phác họa sinh hoạt của một gia đình đầu thời kỳ đồ đá. 

Bằng cách nghiên cứu hơn 300 bộ xương của con người tại thời kỳ đầu đồ đá, được khai quật từ các quốc gia trung tâm châu Âu, giáo sư Alex Bentley - nhà khảo cổ học và nhân chủng học tại trường đại học Bristol (Anh) cùng nhóm đồng nghiệp đã phát hiện ra bằng chứng về phân hóa xã hội thời cổ đại.

Dựa vào kết quả phân tích các xương, có thể hình dung ở thời đại này, một số nông dân châu Âu đã trở nên béo tốt nhờ nguồn lương thực, thực phẩm dồi dào, đủ chất mà họ có được từ việc sở hữu những cánh đồng màu mỡ và sử dụng các công cụ lao động tiên tiến bằng đá, chẳng hạn như lưỡi rìu, lưỡi cuốc. Trong khi đó, chủ nhân những bộ xương còi cọc được xác định là chết do đói khát.

Thời điểm này, dân số thế giới được ước tính chỉ vào khoảng từ 5-7 triệu người, và nền nông nghiệp của châu Âu mới bắt đầu được hình thành với trình độ cực kỳ thô sơ. Trước đó, con người sống dựa hoàn toàn vào săn bắt và hái lượm trong tự nhiên. Rừng rậm vẫn bao phủ phần lớn đất đai trên hành tinh.

Do đó, những người sở hữu công cụ lao động tốt hơn sẽ khai phá được những vùng đất canh tác màu mỡ hơn. Họ trở nên giàu có. Những người khác do không có tư liệu sản xuất nên chủ yếu vẫn đào bới bằng cành cây để trồng trọt. Họ là những người nghèo trong xã hội, và cuộc sống vô cùng bấp bênh khi phụ thuộc quá nhiều vào tự nhiên.

Mô hình dinh thự xa hoa của các đại gia thời đồ đá được phục dựng.

Viết lại lịch sử loài người
Bằng chứng về việc thừa kế tài sản cũng được tìm thấy. So sánh các bộ di cốt của trẻ em, các nhà khoa học nhận thấy rõ sự phân biệt sang hèn giữa chúng. Giống như cha mẹ, trẻ em con nhà giàu cũng được chôn theo một số nông cụ bằng đá, còn trẻ em nghèo thì không. Cấu trúc xương của những đứa trẻ cho thấy, trẻ nhà giàu được nuôi dưỡng tốt hơn. Với các ngôi mộ của người trưởng thành trong cùng một gia đình, có sự tương đồng rõ nét về của cải chôn theo, chứng tỏ truyền thống để lại tài sản thừa kế cho con cháu đã được hình thành từ thời đồ đá và tồn tại đến tận ngày nay.

Trong số các ngôi mộ nhà giàu, có một số ngôi được chôn theo rất nhiều nông cụ và vật dụng sinh hoạt bằng đá. Chúng được sắp xếp khá cẩn thận xung quanh người chết. Dấu vết của một số mảnh vỏ cây lớn, dày đã được tìm thấy trong một ngôi mộ như thế ở Tây Ban Nha. Ở một ngôi mộ khác, các nhà khảo cổ lại tìm thấy những tấm da thú. Chúng rất có thể đã được sử dụng để bao bọc thi thể người chết khi đem chôn, một hình thức sơ khai của quan tài. Điều đó, cùng với số lượng lớn bất thường của đồ tùy táng, các nhà khảo cổ phán đoán rằng, có thể chủ nhân của ngôi mộ là một người siêu giàu.

Thậm chí, đó có thể là một vị lãnh chúa, hay địa chủ (theo cách gọi ngày nay). Nếu giả thiết này là đúng, thì sự phân hóa giai cấp ở đầu thời kỳ đồ đá này đã đến sớm và sâu sắc đến cực độ. Lịch sử loài người sẽ phải được viết lại, bởi lâu nay, dù thừa nhận việc biết tạo ra công cụ bằng đá đã giúp con người đạt được những thành tựu lớn lao nhưng về mặt ý thức, giới học thuật vẫn coi thời kỳ đồ đá là thời kỳ mông muội, không hơn thời nguyên thủy ăn hang ở lỗ là bao nhiêu.

Các hoa văn khắc trên lưỡi rìu, dao đá cho thấy ngôn ngữ thời kỳ này bắt đầu hình thành và phát triển. Có nhiều nhóm hoa văn khác nhau được tìm thấy, đại diện cho các nền văn hóa, ngôn ngữ khác nhau, dù còn rất sơ khai. Thống kê lại thì những người nông dân cổ đại sống trên lãnh thổ nước Đức ngày nay là giàu có nhất và có ngôn ngữ sớm nhất. Các cổ vật khắc hoa văn của họ có niên đại chừng 7.000 năm, trong khi ở các vùng khác, dấu hiệu của ngôn ngữ và chữ viết chỉ xuất hiện từ cách nay khoảng 5.000 năm. Những kết luận này rất phù hợp với các bằng chứng khác về khảo cổ, di truyền và nhân chủng học lâu nay.

Giải mã bí mật từ phân tích ADNChế độ mẫu hệ từ thời công xã nguyên thủy vẫn tồn tại vào thời kì đầu đồ đá. Những bộ xương của phụ nữ thuộc giới nhà giàu luôn được chôn cất cùng với nhiều đồ tùy táng hơn nam giới. Tuy vậy, quan hệ họ hàng lại được bắt đầu hình thành và dựa vào nhân thân của nam giới. Ngoài ra, có nhiều bằng chứng cho thấy phụ nữ đã chuyển về sinh sống với gia đình chồng khi kết hôn, mặc dù đang là thời kỳ mẫu hệ. Những bộ xương mà phân tích ADN cho biết có quan hệ ruột thịt với nhau được tìm thấy ở nhiều khu vực khác nhau. Xương của nam giới cùng huyết thống được chôn cùng một khu, với những bộ xương nữ giới khác. Ngược lại, xương của chị em những người đàn ông này lại được tìm thấy ở vùng nghĩa trang của gia đình nhà chồng họ. Đây có lẽ là giai đoạn cuối của chế độ mẫu hệ, trước khi chuyển sang chế độ phụ hệ. Khi chuyển sang canh tác, trồng trọt trên các cánh đồng thay vì dựa vào hái lượm, vai trò của người đàn ông sẽ được thể hiện mạnh mẽ hơn.

Thứ Năm, 17 tháng 4, 2014

Những sai lầm nhỏ tạo nên lịch sử

Những sai lầm bé nhỏ cũng có thể tạo nên lịch sử. Đó có thể là một cú đánh tay lái sai lầm, nhầm múi giờ, cánh cổng thành quên không khóa...

Sai lầm dẫn đến Thế chiến I


Vụ ám sát Thái tử Ferdinand của nước áo ở Sarajevo, Bosnia là một trong những nguyên nhân lớn nhất dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) và nó đã xảy ra hoàn toàn vì một sai lầm ngớ ngẩn.

Xe chở Thái tử Ferdinand. 

Hai nỗ lực ám sát đã diễn ra vào ngày định mệnh đó. Vụ thứ nhất thất bại thảm hại vì tài xế của Thái tử đã ném đi quả bom mà những kẻ ám sát tung lên xe chở ông. Vụ nổ đã làm bị thương một số người đi đường và vài thành viên trong đoàn của Thái tử, nhưng Thái tử và vợ ông vẫn an toàn. Sau khi thoát khỏi hiểm nguy, Thái tử đã yêu cầu được đến thăm các nạn nhân của vụ đánh bom.

Quân miền Nam thiệt mạng trong trận Chancellorsvile.

Trên đường đến bệnh viện, người tài xế đã có một cú đánh lái sai lầm, đưa họ đến thẳng chỗ của một trong những kẻ ám sát. Gavrilo Princip, thuộc tổ chức Bàn tay đen, ẩn nấp trong một quán cà phê khi hắn thấy chiếc xe chở vợ chồng Thái tử. Ở khoảng cách vài mét, Princip nổ hai phát súng khi chiếc xe cố gắng quay đầu. Thái tử cùng vợ trúng đạn và không qua khỏi. Liền sau đó, Đế quốc Áo - Hung lấy cớ cái chết của Thái tử Ferdinand là tác phẩm của người Serbia nên đã tuyên chiến với nước này, chính thức khởi đầu Chiến tranh thế giới thứ nhất.

Không mua được súng trường dẫn đến Nội chiến Mỹ
Có lẽ một trong những sai lầm lớn nhất đã kéo dài cuộc Nội chiến Mỹ (1861-1865) một cách không cần thiết là đưa James Wolfe Ripley lên làm người đứng đầu lực lượng hậu cần của quân miền Bắc. Là một người bảo thủ trên mọi phương diện, Ripley liên tục ngăn chặn mọi bước đi để mua sắm vũ khí tốt hơn cho miền Bắc vì luôn cho rằng chúng quá đắt. Ông đặc biệt phản đối ý tưởng mua những khẩu súng trường nạp đạn ở khóa nòng và nghĩ rằng súng trường nòng trơn của họ là đã đủ tốt.

Trận chiến Gallipoli.

Một trong những khuyết điểm lớn nhất của Ripley là cái tôi cá nhân của ông quá lớn. Một phụ tá gợi ý rằng họ nên mua những khẩu súng trường Enfield mà người Anh đã lên kế hoạch bán với giá như cho không. Ripley nghĩ việc quay sang nhờ vả đối thủ cũ của đất nước mình là không thể tưởng tượng được. Ông cũng tiên đoán rằng cuộc nội chiến sẽ kết thúc chỉ sau vài tháng.

Sau đó Ripley đã phải hối tiếc vì miền Nam đã mua những khẩu súng của Anh và dùng chúng để giành lợi thế trước miền Bắc trong những trận đánh đầu tiên của cuộc chiến.

Chiến dịch Gallipoli sa lầy vì hẹn giờ không khớp
Trong một chiến dịch thảm họa của Chiến tranh thế giới thứ nhất vào năm 1915, các lực lượng đồng minh đã tìm cách chiếm lấy eo biển dọc bán đảo Gallipoli để mở một con đường tới Nga. Kết quả là họ đã vướng vào một cuộc chiến mệt nhoài kéo dài 8 tháng, khiến hàng trăm nghìn quân Đồng minh và Ottoman thiệt mạng.

Máy bay B-26, từng được Mỹ dùng trong chiến dịch Vịnh Con Lợn.

Một sai sót đáng kinh ngạc khiến quân Đồng minh phải chịu số thương vong cao đến vậy đơn giản là vì họ hẹn giờ không đồng bộ. Trong chiến dịch này, các lực lượng hải quân Đồng minh đã kết thúc cuộc đánh bom sớm đến 7 phút, cho người Thổ Nhĩ Kỳ thời gian để tái sắp xếp đội hình bên chiến hào của mình. Do đó, hơn một nửa trong số 600 lính Đồng minh được cử đi đã bị thương hoặc tiêu diệt khi hỏa lực của quân Thổ khiến họ ngã như ngả rạ.

Cuối cùng, thế bế tắc cũng như số thương vong quá cao đã khiến quân Đồng minh rút khỏi chiến dịch, đưa chiến thắng đến cho người Ottoman.

Nhầm múi giờ phá hỏng sự kiện Vịnh Con Lợn
Trong sự kiện Vịnh Con Lợn năm 1961, quân đội Cuba đã đánh bại âm mưu xâm lược của lực lượng lưu vong do Mỹ hỗ trợ. Lời hứa yểm trợ bằng không quân của Mỹ đã không bao giờ trở thành hiện thực do tính cẩu thả. Các nhà hoạch định quân sự Mỹ và CIA đã quên tính đến sự khác biệt về múi giờ giữa Cuba và căn cứ không quân của họ ở Nicaragua (hơn kém nhau 1 tiếng đồng hồ).

Các máy bay ném bom của Mỹ không chỉ đến quá sớm, mà chúng còn không gặp được các máy bay hộ tống của hải quân. 4 phi công Mỹ thiệt mạng đã khiến Tổng thống Mỹ Kennedy bẽ mặt và phải chấm dứt hành động can dự trực tiếp của Mỹ.

Thứ Tư, 16 tháng 4, 2014

Bí ẩn những mộ cổ “công chúa” gây chấn động VN

Gần đây, việc phát hiện xác ướp, mộ của những hài cốt được cho là của các công chúa Việt Nam xưa cùng những câu chuyện ly kỳ liên quan được nhiều người quan tâm.

Xác ướp nàng công chúa 20 tuổi ở Ninh Hiệp


Tháng 9/2012, thông tin khai quật ngôi mộ xác ướp bí ẩn ở xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội khiến nhiều người xôn xao. Anh Nguyễn Văn Tuyến - Trưởng ban văn hóa xã Ninh Hiệp là người chứng kiến từ đầu cuộc khai quật cho biết, ngôi mộ được phát hiện dưới nền nhà anh Nguyễn Như Trung. Trong quá trình khởi công xây nhà, anh Trung phát hiện rất nhiều mồ mả ở dưới. Trong đó có một ngôi mộ xây bằng bê tông nằm sâu dưới lòng đất 3m.

Khi nhờ thợ khoan cắt bê tông mở được nắp quan tài, ai nấy đều hãi hùng, tái mặt khi thấy bên trong là một thiếu nữ đang nằm ngủ, mái tóc xõa dài, cơ thể được bó bằng 5 lớp vải trắng toát, buộc rất chặt, thắt nơ hoa. Những tấm vải lụa còn mới, chưa mục nát. Khoảng nửa tiếng sau, lớp da chuyển sang màu thâm, phần da ở cổ phù ủng...

Cận cảnh xác ướp khai quật ở Ninh Hiệp.

Nhìn người trong quan tài, ai cũng đoán khoảng 20 tuổi chứ không phải người già chết. Trong quan tài có một vài thứ như túi đựng trầu cau, chiếc quạt, đôi hài, bím tóc, một túi vải như túi giấy bùa. Quan tài khô ráo, dưới đáy là gạo rang, vỏ trấu và than củi. Từ ngôi mộ xộc ra mùi hắc, sau nhiều ngày chưa hết, người dân đoán đây là chất ướp xác. Gia đình anh Trung phải đi mua cỗ áo quan để đặt “xác ướp”.

Bà Lộc, người tự nguyện trông nom ngôi mộ ở Ninh Hiệp đã gặp nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên ở Hải Dương hỏi thông tin về ngôi mộ. Ông Liên khẳng định, người nằm trong ngôi mộ là công chúa Lê Thị Mai Hoa đời nhà Lê, hiệu diệu Thái Thành công chúa, mất ngày 16 tháng 3 năm Thìn. Bà Lộc cho biết, sau ông Liên, 7 nhà nghiên cứu và ngoại cảm khác cũng khẳng định người nằm dưới mộ là công chúa Lê Thị Mai Hoa.

Cùng với sự xuất hiện của ngôi mộ cổ có xác ướp, nhiều câu chuyện ly kỳ được kể lại như: chuyện cây khế sai quả tỏa bóng mát, che cho ngôi nhà của công chúa, hoặc 12 tiểu sành chứa xương cốt người hầu của công chúa... Sau khi khai quật, người dân cũng đồn thổi, vợ anh Nguyễn Như Trung bị ốm đau bệnh tật suốt nhiều tháng trời, có người ăn trộm tấm ván mang đi bán rồi chết trẻ... Người dân ở đây đã xây mộ, thờ cúng dù chưa có sự công nhận chính thức nào.

Trong khi đó, nhà sử học Đặng Hùng cho biết: “Tôi đã nghiên cứu các tài liệu, song không phát hiện bất cứ cô công chúa thời Hậu Lê nào có tên là Lê Thị Mai Hoa, hiệu diệu Thái Thành công chúa, chết năm 20 tuổi”. Chủ tịch xã Ninh Hiệp Nguyễn Bá Khánh cũng cho biết: “Người nằm trong mộ có phải công chúa Mai Hoa hay không, thì tôi không dám chắc, vì chưa có cơ sở khoa học”.

Phát hiện mộ cổ công chúa Lý Kiều Oanh?
Vừa qua, khi gia đình anh Phạm Văn Nam, ở tiểu khu 6, phường Hải Thành, TP Đồng Hới, Quảng Bình trong lúc đào móng xây dựng nhà đã phát hiện một ngôi mộ cổ. Ngôi mộ được xây bằng gạch, tường rào hình chữ nhật và có tấm bia đá khắc 5 chữ Hán cổ, được dịch là “Lý Kiều Oanh công chúa” và một số mảnh gốm thuộc thời Minh (thế kỷ XIV – XV). Theo nhận định của các chuyên gia về sử học thì rất có thể đây là mộ của công chúa Lý Kiều Oanh.

Các chuyên gia và nhà nghiên cứu sử học cho rằng, chủ nhân ngôi mộ trên có liên quan đến nhân vật lịch sử Hồ Cưỡng - vị tướng vào cuối đời Trần, người được coi là vị Tổ đã có công sơ khai lập ấp ở vùng Nhân Trạch, huyện Bố Trạch, Quảng Bình. Ông cũng là vị tướng đã chống giặc nơi đây, tiêu biểu như trận đánh ở cửa sông Nhật Lệ, ở hồ Bàu Tró...

Ngôi mộ cổ được cho là mộ của "Lý Kiều Oanh Công chúa" được phát hiện dưới móng nhà anh Phạm Văn Nam. 

Tuy nhiên, theo tiến sĩ Hán Nôm học Mai Hồng - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và ứng dụng Phật học Việt Nam thì “công chúa” là một hàm tước thời ấy được vua ban chứ không hẳn là con của vua. Còn ông Trần Anh Tuấn - Giám đốc Bảo tàng Quảng Bình lại phân tích, đây có lẽ là một sự nhầm lẫn nào đó chứ ngôi mộ của “công chúa” không thể táng một cách đơn giản như vậy được. Ông Tuấn đã theo dõi rất kỹ việc khai quật này và khẳng định đây là một ngôi mộ rất bình thường, phía trên lát gạch và các bên là vôi vữa.

“Mộ” công chúa Ngọc Hân ở Hà Nội
Từ lâu, trong dân gian vẫn lưu truyền sự tích đền Ghềnh gắn với số phận bi thương của công chúa Ngọc Hân. 16 tuổi, công chúa Lê Ngọc Hân, con gái của vua Lê Hiển Tông và Từ cung Nguyễn Thị Huyền kết duyên với Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải ngay tại kinh thành Thăng Long năm Bính Ngọ (ngày 11/7/1786).

Ngọc Hân lên ngôi Bắc cung Hoàng hậu ở Phú Xuân (1789) nhưng chỉ hai năm sau, vua Quang Trung đột ngột ra đi, để lại cho Ngọc Hân bao nỗi xót xa đau đớn, cơ hàn vì sự trả thù của Nguyễn Ánh. Bà ở góa tám năm nuôi hai con nhỏ là Nguyễn Văn Ðức, Nguyễn Thị Ngọc và mất ngày 8 tháng 11 năm Kỷ Tỵ (4/12/1799) ở tuổi 29.

Năm 1804, bà Nguyễn Thị Huyền đã lặn lội vào tận Phú Xuân, tìm cách đưa hài cốt Ngọc Hân về an táng ở quê bà - làng Nành, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội) ngày 16/7/1804 tại bãi Cây Ðại đầu làng rồi lập miếu thờ.

Cổng đền Ghềnh.

Ðến đời Thiệu Trị, vua coi việc lập miếu thờ vợ Quang Trung là một trọng tội nên đã lệnh cho quan quân địa phương khai quật mộ mẹ con Ngọc Hân đổ hài cốt xuống sông. Vì sông Nguyệt Ðức gần làng, họ phải đem hài cốt mẹ con Ngọc Hân đổ xuống sông Hồng, cách xa làng Nành. Ðó là quãng sông thuộc địa phận làng Ái Mộ.

Thương xót Bắc cung Hoàng hậu tài hoa bạc mệnh, nhân dân Ái Mộ lập miếu thờ bà chính nơi bờ sông vớt được hài cốt. Dòng sông bên lở, bên bồi; ít lâu sau, ngôi miếu nhỏ cũng bị lũ cuốn trôi. Cho đến năm 1858, cụ Ðặng Thị Bản vốn là người nhân từ đã hằng tâm công đức để tôn tạo đền chùa ở Ái Mộ, Lâm Du, Phú. Cụ quyên tiền khách thập phương và đứng ra xây lại ngôi đền. Ðể bảo vệ đền, không cho quan quân nhà Nguyễn đập phá, nhân dân dùng hình thức "thờ các chư vị", nhưng thực ra là thờ Ngọc Hân.

Năm 1872, đền lại bị giặc Pháp đốt sạch trong cơn binh lửa đánh Thành Hà Nội. Thêm một lần nữa, cụ Ðặng Thị Bản lại đi quyên góp xây lại đền khang trang hơn trước. Đó là ngôi đền Ghềnh, thuộc thôn Ái Mộ, phường Bồ Ðề, quận Long Biên, bên cầu Chương Dương. Như vậy, trải qua bao thăng trầm, đền Ghềnh vẫn được con cháu cụ Ðặng Thị Bản trông nom và dân làng gìn giữ đến ngày nay.

Thứ Ba, 15 tháng 4, 2014

5 kho báu lớn nhất thế giới mất tích đầy bí ẩn

Kho báu của Lima, bản thảo vở kịch “The History Of Cardenio” của đại thi hào Shakespeare... là những kho báu lớn nhất của nhân loại biến mất một cách bí ẩn.

1. Copper Scroll
Copper Scroll hay còn gọi Bảng danh sách bằng đồng. Đây là một trong số 981 văn bản khác nhau được tìm thấy ở Khirbet Qumran trong khoảng thời gian từ năm 1946 – 1956. Nó có ý nghĩa đặc biệt vì bảng danh sách bằng đồng này được cho là chỉ dẫn đến một bản đồ kho báu. Chúng được viết trên chất liệu đồng được cán rất mỏng.

Bảng danh sách bằng đồng là tài liệu duy nhất được tìm thấy ở Khirbet Qumran không được viết trên giấy da hoặc hoặc giấy papyrus. Thêm vào đó, tiếng Do Thái được viết trong tài liệu đó cũng khác so với những cuộn giấy Biển Đen khác được tìm thấy trước đấy.

Bảng danh sách bằng đồng chỉ dẫn đến hơn 60 địa điểm cất giấu kho báu khác nhau, với trữ lượng vàng và bạc không đều nhau được chôn cất hay cất giấu tại những nơi đó. Bảng danh sách này cũng đưa ra một số hướng dẫn cụ thể để tìm được kho báu.

Mặc dù không có bằng chứng rõ ràng giống như những cuộn giấy Biển Chết để chứng tỏ sự tồn tại của những kho báu cất giấu nhưng khá nhiều người đã mở cuộc thám hiểm truy tìm kho báu có giá trị trên. Một số học giả tin rằng, có nhiều khả năng người La Mã đã tìm thấy tất cả các kho báu bởi họ có một thói quen tra tấn những kẻ bị giam cầm tra tấn để tìm bí mật của họ.

2. “The History Of Cardenio”

Trong khi hầu hết mọi người đã biết đến vở kịch "Love’s Labour’s Won" của William Shakespeare thì tác phẩm “The History Of Cardenio” của ông và John Fletcher dường như được ít biết đến hơn. Bằng chứng về sự tồn tại của vở kịch này được thấy ở một số nơi. Trong số đó có một danh sách các vở kịch được Đoàn kịch của Nhà Vua thực hiện hồi tháng 5/1613. Đoàn kịch này là của nhà văn Shakespeare.

Tuy nhiên, bản thảo của vở kịch này đã biến mất và không bao giờ được nhìn thấy một lần nữa. Trong thế kỷ 18, Lewis Theobald - biên tập viên và nhà viết kịch của Shakespeare đã tuyên bố tìm thấy một bản sao bản thảo vở kịch “The History Of Cardenio” và “hoàn thiện" tác phẩm đó. Ông đã biến nó thành một vở kịch có tên “Double Falsehood”. Theobald tuyên bố đã tìm thấy bản thảo vở kịch “The History Of Cardenio” ở bên trong Nhà hát Covent Garden ở London. Nơi này bị thiêu trụi hồi đầu thế kỷ 19. Một số học giả không biết liệu thông tin của Theobald có đúng sự thật hay không.

3. Quả cầu của Archimedes


Thường được miêu tả như là Leonardo da Vinci của Hy Lạp cổ đại, Archimedes là một nhà phát minh tài ba và nổi tiếng với tiếng hét lớn: "Eureka!" và chạy khỏa thân dọc Syracuse. Tuy nhiên, ông đã phát minh ra một thiết bị được gọi là "cỗ máy thiên văn”. Về cơ bản, thiết bị này cho thấy sự chuyển động của mặt trời, mặt trăng và các hành tinh khi nhìn từ trái đất.

Người ta tìm được rất ít thông tin, tài liệu về cỗ máy thiên văn của Archimedes được phát minh ra như thế nào. Người ta chỉ biết rằng, ông đã phát minh ra nó để mọi người có thể hiểu hơn các tầng thiên đường và cả các vị thần thánh. Thiết kế cỗ máy này khá phức tạp và chúng ta chỉ biết được những thông tin về khối cầu đó qua những tài liệu khác nhau của những tác giả khác như nhà toán học Hy Lạp Pappus.

4. Kho báu của Lima

Kho báu này được cho là chôn giấu ở đảo Cocos, ngoài khơi bờ biển của Costa Rica. Người ta cho rằng kho báu này có trị giá 300 triệu USD với 113 pho tượng tôn giáo làm bằng vàng, một tượng Đức mẹ Maria có kích bằng người thật, 200 tủ đồ trang sức, 273 thanh kiếm quý được nạm trang sức, 1.000 viên kim cương, 150 chén lễ và hàng trăm thỏi vàng và bạc.

Chuyện kể rằng, vào năm 1820, thành Lima (Peru) xảy ra biến cố lớn. Tổng trấn thành Lima đã quyết định chuyển toàn bộ tài sản của Lima bằng 11 con thuyền tới Mexico để đảm bảo an toàn.
Thuyền trưởng William Thompson được giao trọng trách chỉ huy đoàn thuyền tới Mexico. Tuy nhiên, tổng trấn thành Lima đã quên mất kiểm tra xuất thân của thuyền trưởng William Thompson trước khi khởi hành. Do đó, khi đoàn thuyền chở kho báu rời thành Lima không xa, thuyền trưởng William Thompson lộ rõ bản chất thật của mình là một tên cướp biển. Thompson đã ra lệnh cho tay chân giết hại các vệ sỹ người Peru và vứt thi thể của họ xuống biển.

Sau đó, Thompson cho đoàn thuyền hướng về phía đảo Cocos, Ấn Độ Dương, nơi được cho là tên cướp biển gian xảo Thompson và đồng bọn chôn cất kho báu, chờ cho tình hình yên ổn trở lại sẽ đào lên và chia nhau tiêu xài.

Tuy nhiên, Thompson và những tên cướp biển khác đã bị bắt. Tất cả đều bị tử hình trừ Thompson và một tên tay sai thân cận giữ được mạng sống sau khi chúng đồng ý chỉ cho người Tây Ban Nha tới nơi cất giấu kho báu. Hai người đã chỉ đường cho họ lên đảo Cocos và sau đó bỏ trốn vào rừng sâu. Kể từ đó, Thompson và người của hắn cũng như kho báu khổng lồ vĩnh viễn không được tìm thấy.

Cho đến nay, người ta đã tổ chức hơn 300 cuộc tìm kiếm kho báu của Lima nhưng đều không thành công. Một số người suy đoán, kho báu đó không được chôn trên đảo Cocos mà thực ra là được cất giấu ở hòn đảo bí mật thuộc ngoài khơi biển Trung Mỹ.

5. Mẫu hóa thạch của loài chim thủy tổ Maxberg


Một trong những hóa thạch chim thủy tổ sớm nhất của nhân loại đó là hóa thạch quá trình tiến hóa từ khủng long sang loài chim. Hóa thạch chim thủy tổ (Archaeopteryx) từ lâu đã được ca ngợi là một khám phá quan trọng trong lĩnh vực hóa thạch học và điểu cầm học.

Các chuyên gia tìm được 11 hóa thạch tương đối hoàn chỉnh và mỗi một hóa thạch có giá trị quan trọng. Năm 1956, hai công nhân làm việc tại mỏ đá ở Đức đã tìm thấy mẫu hóa thạch loài chim thủy tổ Maxberg. Khi đó, nó thuộc sở hữu của người đàn ông có tên Eduard Opitsch. Vào thời điểm ấy, nó là 1 trong 3 mẫu hóa thạch chim thủy tổ được con người tìm thấy. Sau đó, ông đã cho Bảo tàng Maxberg mượn để phục vụ hoạt động nghiên cứu.

Ban đầu Opitsch có ý định bán hóa thạch trên nhưng lại do dự khi biết sẽ phải nộp nhiều loại thuế. Về sau, ông ta lấy lại hóa thạch cho bảo tàng mượn và đem về nhà cho đến khi qua đời. Sau khi ông chết, cháu trai của ông cố tìm hóa thạch Maxberg nhưng không thấy. Nó được cho là đã bị đánh cắp ngay sau khi ông Opitsch qua đời.

Thứ Hai, 14 tháng 4, 2014

Vụ đại đào thoát kinh thiên của tù binh Đức Quốc xã

Trong Chiến tranh thế giới II, hơn 60 tù nhân chiến tranh Đức Quốc xã đã đào thoát khỏi trại tù của Mỹ ở nước Anh.

Bridgend ở xứ Wales, Anh là nơi giam giữ tù binh Đức quốc xã từ cuối năm 1944 - 1948. Vào ngày 10/3/1945, 66 tù nhân Đức đã trốn thoát thông qua một đường hầm. Tuy nhiên, sau đó tất cả nhóm tù binh đào thoát bị quân đội Đức quốc xã bắt lại, trong đó nhóm cuối cùng bị bắt ở khu vực gần Swansea, xứ Wales.

Trong thời gian diễn ra Chiến tranh thế giới II, tù binh Đức bị quân đội Anh bắt được và bị giam cầm tại trại giam giữ tù binh chiến tranh (POW) tại nước này. Quân đội Mỹ có một trại giam tù binh chiến tranh ở Bridgend, miền Nam xứ Wales và bắt đầu sử dụng nó từ năm 1943. Trại tù này nằm gần nhà máy sản xuất đạn. Quân đội Mỹ sử dụng nơi này để giam giữ một số lượng lớn tù binh Đức quốc xã bị bắt ở Tây Âu. Mỹ cho xây trại tù này có sức chứa lên đến 2.000 người. Nơi này đã trở thành nhà tù không chỉ giam cầm những tù binh chiến tranh cấp thấp mà còn giam giữ những tù binh là quan chức cấp cao kể từ tháng 11/1944.

Khi Chiến tranh thế giới II sắp kết thúc, các nhà chức trách ở trại giam giữ tù binh của Mỹ đã chủ quan cho rằng không tù nhân nào có ý định tẩu thoát. Bởi lẽ, khi đó, điều kiện ăn ở trong trại tập trung của Mỹ tốt hơn nhiều so với trại tập trung của Đức quốc xã. Tuy nhiên, hầu hết tù nhân Đức quốc xã cứng đầu muốn tiếp tục kề vai sát cánh, chiến đấu vì trùm phát xít Hitler.

Hơn 60 tù nhân chiến tranh Đức quốc xã đã đào thoát khỏi trại tù của Mỹ ở nước Anh nhưng sau đó bị bắt trở lại.

Đến tháng 1/1945, quân đồng minh phát hiện một đường hầm nhưng sau đó chỉ huy trại tập trung của Mỹ cho rằng đó chỉ là đường hầm ngụy trang. Tuy nhiên, đến tháng 3/1945, Mỹ phát hiện ra đường hầm mà tù nhân dùng để đào thoát. Cụ thể, vào ngày 10/3, 66 tù nhân đã bò qua đường hầm dài 18m và đào thoát thành công ra bên ngoài.

Tuy nhiên, đến 2h30 sáng, nhân viên an ninh trại giam tù binh chiến tranh phát giác ra cuộc đào thoát đó. Binh sĩ Mỹ đã bắn hạ một tù nhân bỏ trốn và sau đó nhanh chóng bắt được 11 tù binh khác. Một số tù nhân khác còn cười đùa khi một nhân viên trại tù binh bị rơi xuống hố ở đường hầm. Bốn nhân viên giám sát trại giam trở về doanh trại trong tình trạng say rượu nên đã để lọt 4 tù binh. Bốn người này đã lợi dụng cơ hội ăn trộm một chiếc xe để tẩu thoát.

Mặc dù quân đội Mỹ nhanh chóng bắt được những tù binh bỏ trốn nhưng một số vẫn được tự do ở bên ngoài khá lâu. Cụ thể, hai tù binh đã bị một đồn cảnh sát bắt lại. Hai tù binh khác là Karl Ludwig thuộc lực lượng SS và Heinz Herzler đã leo lên một xe lửa chở hàng. Trước khi lên tàu, họ ẩn nấp trong một bụi cỏ. Trên thực tế, họ đã đi được một đoạn đường dài 13 km trước khi bị nữ cảnh sát tóm gọn.

Quân đội Mỹ đã thành lập các trạm tuần tra để bắt lại tù binh nhưng hầu hết số tù binh đào thoát thành công ở trại giam Bridgend đều có sự chuẩn bị chu đáo. Họ có cả la bàn, thực phẩm, bản đồ sao chép hệ thống các toa xe và đi theo nhóm, mỗi nhóm 3 người. Trong số những tù nhân bỏ trốn được quãng đường khá xa có hai tù nhân đến được Hampshire, cách trại giam tù binh chiến tranh của Mỹ 164 km. Ngoài ra, 4 tù binh khác đến được Birmingham nhờ chiếc xe ăn cắp. Cuối cùng, tất cả tù binh bị bắt trở lại, với người cuối cùng được tìm thấy sau khi xảy ra vụ đào thoát ngoạn mục 1 tuần. Khi đó, tù binh này ở trong tình trạng đói, mệt mỏi và ngất ở khu vực gần thung lũng Swansea.

Sau khi bị bắt lại, các tù binh chiến tranh được chuyển đến các trại giam khác. Trong đó, những tù binh là quan chức cấp cao bị giam giữ ở trại Island Farm. Nơi này bị đóng cửa vào năm 1948.

Chủ Nhật, 13 tháng 4, 2014

4 vụ cướp, tai nạn máy bay chấn động lịch sử

Samuel Byck đã lên kế hoạch "chiếc hộp Pandora" để cướp máy bay rồi đâm vào Nhà Trắng để ám sát Tổng thống Nixon nhưng không thành công.

1. Samuel Byck
Năm 1974, cuộc sống Samuel Byck gặp nhiều biến cố. Ông đã ly hôn với người vợ, trở nên xa lạ với 4 đứa con cũng như bị thất nghiệp sau nhiều nỗ lực không thành công để bắt đầu sự nghiệp doanh nghiệp. Byck cũng bị ám ảnh bởi mối hận thù với Tổng thống Richard Nixon - người mà ông đổ lỗi là người gây ra tất cả rắc rối cá nhân gặp phải.

Năm 1973, Byck đã gây sự chú ý đối cơ quan mật vụ sau khi gửi những lời lẽ đe dọa đến Tổng thống Nixon. Cơ quan mật vụ đã xem thường các mối đe dọa đến từ Byck mà không ngờ được rằng, ông đã lên hẳn một kế hoạch ám sát ông chủ Nhà Trắng Nixon. Kế hoạch ám sát Tổng thống Nixon được ông gọi là "chiếc hộp Pandora".

Vào ngày 22/2, Byck đã có mặt tại sân bay Quốc tế Baltimore - Washington để thực hiện kế hoạch ám sát Tổng thống Mỹ. Byck đã mang theo một khẩu súng lục cỡ nòng 0,22 caliber và một chiếc cặp có chứa một quả bom xăng tự chế. Khi đi qua trạm kiểm soát an ninh, Byck đã lấy súng ra và bắn chết một cảnh trước khi lên chuyến bay chuyến bay của hãng hàng không Delta số 523 chuẩn bị khởi hành đến Atlanta.
Khi đó, Byck đã xông vào buồng lái và ra lệnh cho hai phi công là Douglas Reese Lofton và Fred Jones cất cánh nhưng họ đã cố tình trì hoãn cất cánh máy bay. Byck đã bắn cả hai phi công trên và sau đó, bắt một nữ hành khách ngẫu nhiên và ra lệnh cho cô phải điều khiển máy bay. Khi đó, cơ quan chức năng đã bắn Byck bị thương khi hắn đứng ở cửa sổ buồng lái.

Sau khi ngã xuống sàn, Byck đã tự tử bằng cách bắn vào đầu. Phi công Jones đã chết do vết thương quá nặng và phi công Lofton may mắn sống sót sau cuộc tấn công. Sau đó, cơ quan chức năng phát hiện một cuốn băng ghi âm tại nơi Byck lập kế hoạch “chiếc hộp Pandora”. Nội dung đó nói rằng, ông muốn ám sát Tổng thống Nixon bằng cách cướp một chiếc máy bay và điều khiển nó đâm vào Nhà Trắng. Câu chuyện này đã trở thành nguồn cảm hứng cho bộ phim “The Assassination of Richard Nixon” công chiếu năm 2004.

2. Chio Tok
Ngày 16/7/948, Miss Macao - một thủy phi cơ Catalina thuộc sở hữu của hãng hàng không Cathay Pacific cất cánh từ Macau đến Hong Kong đã gặp nạn. Chỉ một thời gian ngắn sau khi cất cánh, chiếc máy bay này đã đâm xuống đồng bằng châu thổ sông Châu (Pearl River Delta), khiến 25 trong số 26 người có mặt trên chuyến bay tử vong. Người duy nhất còn sống sót là Wong Yu. Wong được hai ngư dân tìm thấy trong tình trạng trôi nổi trên mặt nước.

Người đứng đằng sau vụ tai nạn trên đó là một người đàn ông tên là Chio Tok đã thực hiện kế hoạch đó cùng với Wong và hai đồng phạm khác để chiếm quyền điều khiển máy bay Miss Macao và bắt cóc hành khách. Nhiều hành khách trên chuyến bay đó là người giàu có nên nhóm không tặc quyết định cướp máy bay hạ cánh tại một hòn đảo xa xôi.
Sau đó, nhóm không tặc sẽ đòi tiền chuộc từ người thân các hành khách. Tuy nhiên, khi các phi công không điều khiển máy bay theo yêu cầu của nhóm khủng bố, Chio Tok đã bắn vào đầu viên phi công. Do vậy, chiếc máy bay mất kiểm soát và lao xuống. Wong đã nhảy ra khỏi máy bay khi nó đang rơi thông qua cửa thoát hiểm.

Tuy nhiên, vào thời điểm đó, luật pháp Macau cũng như Hong Kong không có quy định xử lý tình huống trên nên giới chức trách không thể truy tố Wong Yu về việc đã gây ra tội ác tày đình trên. Sau đó, Wong được giới chức trách thả và bị trục xuất về Trung Quốc năm 1951.

3. Julian A. Frank


Vào tối ngày 6/1/1960, một chiếc Boeing 707 đã được lên kế hoạch cất cánh từ sân bay quốc tế Idlewild, New York đến Miami. Tuy nhiên, người ta đã phát hiện một cửa sổ bị nứt trong buồng lái nên toàn bộ hành khách dự định bay trên máy bay Boeing 707 đã được chia thành hai nhóm và chuyển sang hai máy bay khác. Hầu hết các hành khách được chuyển sang máy bay Lockheed Electra. Trong khi đó, 29 hành khách khác và 5 thành viên phi hành đoàn được đưa lên máy bay Douglas DC -6B mà sau này được gọi là chuyến bay hàng không quốc gia số 2511. 

Khoảng 3 giờ sau khi cất cánh, chuyến bay số 2511 bị rơi tại cánh đồng của nông dân bên ngoài Bolivia, North Carolina, Mỹ khiến tất cả mọi người có mặt trên chuyến bay tử nạn.

Sau đó, người ta phát hiện một hành khách có tên là Julian A. Frank đã mang một quả bom lên máy bay. Cơ quan chức năng đã tìm thấy Frank cách khu vực máy bay gặp tai nạn 25,5 km cùng với dây điện và các mảnh vỡ kim loại trên cơ thể. Do đó, người ta suy đoán Frank đã giấu quả bom dưới ghế ngồi và nó cũng mở ra cuộc tranh luận liệu ông có cố tình mang bom lên máy bay hay không. Frank từng là luật sư và vào thời điểm đó, ông bị điều tra tội tham ô và đã mua một gói bảo hiểm nhân thọ trị giá 900.000 USD trước khi lên máy bay. Cho đến nay, giới chức trách vẫn chưa đưa ra những thông tin chính xác về vụ tai nạn máy bay trên.

4. Robert Vernon Spears


Vào tối ngày 16/11/1959, chuyến bay hãng hàng không Quốc gia 967 cất cánh từ Tampa đến New Orleans đột nhiên biến mất khi đang bay gần vịnh Mexico. Sau những nỗ lực tìm kiếm, giới chức trách tìm thấy những mảnh vỡ máy bay nằm rải rác ở một số nơi cùng với thi thể một số nạn nhân. Điều rõ ràng là chuyến bay 967 đã đâm xuống vùng Vịnh nhưng phần còn lại của máy bay và hầu hết các hành khách khác không bao giờ được tìm thấy.

Tổng cộng có 42 hành khách và phi hành đoàn đã thiệt mạng. Một cuộc điều tra sau đó đã dẫn đến việc nhiều người suy luận máy bay bị đánh bom. Nghi ngờ trên xuất phát từ việc cơ quan chức năng phát hiện ra một cựu tù có tên là William Taylor đã mua một gói bảo hiểm nhân thọ tại sân bay vào buổi tối trước khi xảy ra vụ tai nạn. Tuy nhiên, người ta không tìm được hồ sơ của Taylor mua vé lên bất kỳ chuyến bay nào.

Thậm chí người ta còn phát hiện "Tiến sĩ Robert Vernon Spears" trên danh sách các hành khách có tên trong bản kê khai hàng hóa trên chuyến bay 967. Spears cũng đã mua một gói bảo hiểm nhân thọ vào buổi tối xảy ra vụ tai nạn. Thêm vào đó, Spears và Taylor từng ngồi chung một nhà tù. Tuy nhiên, Spears được phát hiện là vẫn còn sống.

Điều này đưa ra giả thuyết rằng, Spears đã bắt Taylor mua vé lên chuyến bay số 967 dưới tên của mình trước khi lừa người này mang theo một quả bom lên máy bay. Điều này sẽ cho phép Spears giả chết để vợ nhận được thanh toán tiền bảo hiểm. Một người cung cấp tin sau này cho hay Spears cũng mua một gói bảo hiểm nhân thọ dưới tên của Julian A. Frank trước khi Frank tử nạn khi ở trên chuyến bay số 2511. Spears bị FBI thẩm vấn nhưng không có bằng chứng buộc tội người này có liên quan đến vụ tai nạn. Do đó, ông đã được thả. Đến năm 1969, Spears qua đời. Cho đến nay, đây vẫn là vụ tai nạn máy bay đầy bí ẩn.

Thứ Năm, 10 tháng 4, 2014

Rùng mình xác ướp Ai Cập còn nguyên não

Thông qua chụp CT, các nhà nghiên cứu phát hiện một xác ướp Ai Cập cổ đại còn nguyên não nhưng không còn tim.

Xác ướp trên là của một người phụ nữ sống vào khoảng 1.700 năm trước. Vào thời điểm đó, Ai Cập bị người La Mã cai trị và Kitô giáo rất phổ biến tại đây. Cho đến nay, người ta vẫn chưa xác định được danh tính của cô. Các chuyên gia ước tính, người phụ nữ này chết khi tầm 30 – 50 tuổi. Giống như nhiều người dân Ai Cập thời đó, người phụ nữ này gặp nhiều vấn đề về răng miệng vô cùng khủng khiếp đến mức người này bị hỏng khá nhiều răng.

Việc ướp xác đã suy giảm đáng kể khi người La Mã cai trị vùng đất này. Tuy nhiên, người phụ nữ này và gia đình của cô dường như vẫn có niềm tin mạnh mẽ vào văn hóa truyền thống của tổ tiên Ai Cập khi họ thực hiện một số nghi lễ, phong tục có từ thời xưa: ướp xác sau khi chết.

Xác ướp một phụ nữ 1.700 năm tuổi được phát hiện còn não nhưng không có tim. 

Để loại bỏ nội tạng của người phụ nữ này, những người thợ ướp xác đã rạch một khe hở ở vùng giữa hậu môn và bộ phận sinh dục để loại bỏ ruột, dạ dày, gan và thậm chí cả tim. Tuy nhiên, não của xác ướp này được giữ nguyên vẹn, không bị lấy ra như những xác ướp Ai Cập cổ đại khác. Người ta đã bôi các loại thuốc và địa y lên đầu và bụng của cô ta. Sau đó, họ quấn cơ thể cô lại bằng vải lanh và đặt trong quan tài. Theo những tài liệu ghi chép có từ thế kỷ 19, nơi an nghỉ cuối cùng của xác ướp được cho là ở khu vực gần Luxor.

Sau khi đã hoàn thành các công đoạn ướp xác, những người thợ đã dùng vải lanh và nhựa thông để lấp kín chỗ rạch ở vùng giữa hậu môn và bộ phận sinh dục của người phụ nữ này.

Hiện xác ướp và chiếc quan tài được lưu giữ tại Bảo tàng Redpath thuộc ĐH McGill ở Montreal. Một số nhà khoa học hoài nghi liệu chiếc quan tài trên ngay từ đầu được làm ra để dành cho người phụ nữ này hay không. Bởi lẽ, một số người buôn bán sống ở thế kỷ 19 thỉnh thoảng sẽ đặt một xác ướp vào trong chiếc quan tài lấy từ một ngôi mộ khác để kiếm được nhiều tiền hơn. Ngoài ra, người ta cũng thường xuyên tái sử dụng quan tài trong thời cổ đại.

Thứ Tư, 9 tháng 4, 2014

Bí ẩn “xác ướp trinh nữ” mặc váy cưới suốt 8 thập kỷ

Người qua đường bị thu hút bởi đôi mắt trong vắt mở to, mái tóc thật với nước da hồng hào, giống một thiếu nữ thực. Nhiều người tin rằng đó là xác ướp của một cô gái xinh đẹp.

La Pascualita là ma-nơ-canh mặc váy cưới nổi tiếng tại Chihuahua, Mexico hơn 80 năm qua. Phía sau ma-nơ-canh này là cả một câu chuyện ly kỳ. Người qua đường bị thu hút bởi đôi mắt trong vắt mở to, mái tóc thật với nước da hồng hào, giống một thiếu nữ thực. Nhiều người tin rằng đó là xác ướp của một cô gái. Hiện, không chỉ có người dân Mexico, khách du lịch từ Nam Mỹ, Mỹ và châu Âu cũng tìm tới cửa hiệu để tận mắt nhìn thấy La Pascualita.

Xinh đẹp, quyến rũ và đầy ma mị
La Pascualita (hay Little Pascuala) là một ma-nơ-canh đã “sống” trong một cửa hàng váy cưới tại Chihuahua, Mexico suốt 82 năm qua. Trong suốt hơn 8 thập kỷ ấy, “cuộc sống” của ma-nơ-canh này chưa từng một ngày “yên tĩnh”, sống động hơn cả một người sống bằng da bằng thịt. Nó được khuấy động bởi rất nhiều câu chuyện khá ly kỳ về nguồn gốc cũng như những giai thoại khác nhau. Xinh đẹp, quyến rũ và cũng đầy ma mị - là những từ được nói đến khi nghĩ về ma-nơ-canh La Pascualita.

Gương mặt này được cho là quá giống với con người thực. 

Trong nhiều năm qua, câu chuyện của La Pascualita đã thu hút sự hiếu kỳ của rất nhiều du khách. Nhiều người từ Nam Mỹ, Mỹ và châu Âu đã đến Chihuahua thăm quan trả tiền chỉ để tận mắt mục sở thị “xác ướp làm ma-nơ-canh”. Và họ thực sự ngỡ ngàng trước những gì nhìn thấy, sờ thấy. Hằng ngày, trước cửa hàng váy cưới luôn có một số người ghé sát mắt, nhìn chằm chằm vào tủ kính để nhìn kỹ xem đây là ma-nơ-canh thật hay giả mạo. Bởi La Pascualita có nét đẹp khá tự nhiên với đôi mắt to tròn long lanh cuốn hút, mắt và miệng được trang điểm cùng tươi tắn. Nhìn từ xa, nhiều người dễ lầm tưởng đây là người thật. Họ ngạc nhiên, có phần hoảng hốt, quay sang nói với nhau: “Ôi đây là cô ma-nơ-canh người thật”.

Là xác ướp của một thiếu nữ?
La Pascualita lần đầu tiên được trưng bày ở cửa hàng váy cưới vào ngày 25-3-1930. Lúc đó, cô mặc một bộ váy cưới mùa xuân trắng muốt. Nhìn cô rạng ngời như một thiếu nữ tràn đầy sức xuân bước ra từ cuộc sống thực. Du khách bị lôi cuốn bởi ánh mắt đầy quyến rũ và những đường nét rất thật, từ mái tóc thật, đôi mắt mở to rất có hồn và làn da hồng hào, thậm chí ở chân còn có mạch máu hệt như thật. Hầu hết mọi người từng nhìn thấy La Pascualita đều tin rằng, cô là người thật. Sau giây phút ngắm nhìn vẻ đẹp “tuyệt sắc giai nhân” của một ma-nơ-canh độc nhất vô nhị trên thế giới này, người ta tấm tắc khen tài nghệ sáng tạo của người chủ đã làm nên nó. Những du khách tự hỏi: Không biết nghệ sĩ tài ba nào đã làm nên một tác phẩm nghệ thuật sống động y như thật này? Người ta truy tìm, dò la, những mong gặp được chủ nhân của nó.

Cư dân địa phương cũng thật sự sửng sốt pha lẫn tò mò. Họ từng dành hàng giờ đứng ngắm nghía “La Pascualita”, rồi tự đặt ra rất nhiều nghi vấn khác nhau. Cuối cùng, họ cũng nhận ra rằng, cô ma-nơ-canh này có vẻ ngoài rất giống chủ tiệm áo cưới đầu tiên, bà Pascuala Esparza. Khi này, bà Pascuala vẫn còn sống. Người ta đồn đoán rằng, chẳng lẽ bà đã dùng một số tiền lớn để làm nên một ma-nơ-canh y hệt hình dạng mình hay sao? Nhưng chưa một ai trong vùng nghe kể hoặc tận tai một tiết lộ nào của bà Pascuala về chuyện này.

Rồi người ta lại liên tưởng đến một sự việc đau lòng đã xảy ra với gia đình bà Pascuala cách đây không lâu. Người con gái duy nhất tên Kara của bà bị chết khi tuổi đời còn rất trẻ. Theo người dân địa phương kể lại, Kara bị nhện độc có tên “Góa phụ đen” cắn vào đêm trước ngày cưới (Nhện Góa phụ đen - Black widow spider, hay còn được gọi là Nhện góa phụ phương Tây (tên khoa học: Latrodectus hesperus) là một loài động vật chân khớp thuộc họ nhện. Chúng sinh sống ở khu vực Bắc Mỹ, với nét nhận biết đặc trưng là hình giống chiếc đồng hồ cát hay hình cái chuông trên bụng. Đây là một trong những loài nhện độc nhất thế giới.

Nọc độc của chúng có tính oxy hóa rất mạnh nên thường gây ra những vùng lở loét nặng cho những nạn nhân bị cắn). Họ cho rằng rất có thể đây chính là xác ướp của con gái Kara của bà Pascuala. Có thể vì bà chủ tiệm Pascuala do quá đau buồn trước cái chết của cô con gái cưng nên đã thuê người dùng công nghệ cao để ướp xác Kara. Bà muốn thi thể cô con gái được mãi ở đó, luôn rạng ngời trong những bộ váy cưới tinh khôi. Bà cho trưng bày ma-nơ-canh này trong tủ kính, ngay cửa ra vào của cửa hàng, để Kara ngày ngày nhìn thấy mọi người đi ngang qua và nhìn ngắm mình. Bà Pascuala xem đó như một niềm an ủi cho bản thân và cô con gái xấu số.

Theo kể lại, hành động dùng thi thể con gái làm... ma-nơ-canh của bà mẹ này khi đó đã bị người dân địa phương phản đối kịch liệt, thậm chí bị cả chính quyền can thiệp. Tuy nhiên, bà Pascuala chọn giải pháp im lặng, không có bất cứ lời giải thích nào. Hàng ngày, bà vẫn đều đặn trưng bày ma-nơ-canh xinh đẹp đó trong tủ kính của cửa hàng. Bà chăm chút, bảo vệ nó như báu vật riêng. Mặc dù, cư dân địa phương không ai tin vào lời phủ nhận của bà Pascuala, nhưng chẳng ai tiếp tục truy cứu chuyện này nữa. Một số người thì thông cảm với quyết định của bà Pascuala. Họ cho rằng, sở dĩ bà Pascuala có hành động “kỳ quái” ấy cũng chỉ vì quá yêu thương con gái. Và rằng, bà có lý do riêng khi phủ nhận việc làm quái gở của mình. Dần dần, cái tên Kara - cô con gái xấu số của bà Pascuala dần rơi vào quên lãng. Và thay vào đó là một cái tên mang họ Pascuala - La Pascualita. Kể từ đó, cái tên La Pascualita vẫn được sử dụng, mặc dù cửa tiệm áo cưới này đã qua nhiều lần sang tên đổi chủ.


8 thập kỷ kỳ bí 

Qua thời gian, sự hiện diện của ma-nơ-canh đặc biệt này kéo theo rất nhiều câu chuyện ly kỳ được thêu dệt xung quanh. Người ta đồn đại rằng có một pháp sư người Pháp sẽ đến vào buổi tối và phù phép làm cô gái sống lại, sau đó đưa cô ấy rời khỏi thị trấn. Có người khẳng định rằng mỗi lần vào trong cửa hàng, họ bị ‘La Pascualita' nhìn chằm chằm và theo họ từng bước. Có kẻ tin rằng cứ đêm đến là cô gái đi lại trong khung kính.

Hay như người dân địa phương có truyền tai nhau về câu chuyện của một cô gái được cứu sống khi quỳ dưới chân La Pascualita, cầu xin sự giúp đỡ của cô ma-nơ-canh đặc biệt này. Truyện kể rằng, cô gái đó sau khi phát hiện người yêu của mình là một tay đâm thuê chém mướn, đã quyết định chia tay. Gã đàn ông ấy không chấp nhận lời chia tay của cô gái. Gã ta tìm cách giết cô. Hôm đó, gã ta cầm súng đuổi rượt cô gái. Bị trúng đạn ở tay, máu chảy, cô gái ngã gục trước ma-nơ-canh La Pascualita ở một tiệm cửa hàng váy cưới nọ. Trong cơn tuyệt vọng, sợ hãi, cô gái đã khẩn khoản cầu xin sự cứu giúp của ma-nơ-canh La Pascualita. Bất ngờ, gã đàn ông kia bỏ đi, cô gái được đưa đến bệnh viện cấp cứu và thoát khỏi cái chết. Kể từ khi đó, để tỏ lòng biết ơn vì đã cứu mạng, hàng tháng cô gái này thường xuyên thắp nến và hoa đặt trước ma-nơ-canh La Pascualita. Sau câu chuyện này, người ta phỏng đoán rằng phải chăng ma-nơ-canh La Pascualita có sức mạnh siêu nhiên? Những câu chuyện ly kỳ này có thể đều là sản phẩm của trí tưởng tượng mà những người thợ làm việc tại đây thêu dệt nên.

Mặc cho người ta tưởng tượng, hơn 8 thập kỷ qua, ma-nơ-canh La Pascualita vẫn “sống” theo cách riêng của cô. Váy cưới cho La Pascualita được thay mới hai tuần một lần sau tấm màn khép kín. Sonia Burciaga, một nhân viên của tiệm váy cưới này cho biết: “Mỗi lần tôi đến gần Pascualita, tay tôi lại đầm đìa mồ hôi, run rẩy. Tay của cô ấy như tay người thật, thậm chí chân cô ấy còn có mạch máu. Tôi tin rằng cô ấy đúng là người thật”.

Tuy nhiên, dù hầu hết người dân Chihuahua tin rằng La Pascualita thực sự là một xác ướp được bảo quản tốt thì đa số cư dân mạng không tin vào câu chuyện lạ lùng này. Hầu hết các ý kiến đăng tải trên Museum of Hoaxes, một website Mỹ chuyên lật tẩy những trò lừa đảo và thông tin đồn đại đều cho rằng không thể bảo quản một xác ướp ở tình trạng da thịt hoàn hảo như vậy được. Và cho đến tận ngày nay, sự thật về nguồn gốc của ma-nơ-canh La Pascualita vẫn là một bí ẩn. Hằng ngày, thành phố Chihuahua không chỉ đến tiếp người dân Mexico, mà còn cả khách du lịch từ Nam Mỹ, Mỹ và châu Âu cũng tìm tới cửa hiệu để tận mắt nhìn thấy La Pascualita. Câu chuyện về ma-nơ-canh La Pascualita vẫn được lan truyền như một truyền thuyết, và chưa ai có thể xác nhận được sự thực đằng sau câu chuyện này.

Thứ Hai, 7 tháng 4, 2014

Giải bí ẩn số 9 trong kiến trúc hoàng gia Trung Quốc

Dù ít dù nhiều, các kiến trúc hoành tráng tại Cố Cung, Thiên An Môn hay Di Hòa Viên thường gắn liền với con số 9. Đó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên hay còn ẩn chứa những dụng ý sâu xa của người Trung Quốc?

Mỗi lần tới tham quan cung điện hoàng gia và các viên lâm tại Trung Quốc, du khách thường được nghe những thông tin lý thú về số 9. Đây là con số lẻ đầy bí ẩn và có mối liên quan mật thiết tới những kiến trúc này. Theo quan niệm xưa, số lẻ thuộc dương, số chẵn thuộc âm. Trong đó, 9 là con số lớn nhất trong dãy số dương, nên được gọi là số cực dương và chứa đựng ý nghĩa tốt lành. Vì vậy, khi xây dựng, thiết kế các kiến trúc hoàng gia, người Trung Quốc thường gắn với số 9 là một dụng ý sâu xa của họ. Nói chính xác, nó là sự tượng trưng cho quyền lực “chí cao vô thượng” của bậc đế vương trong xã hội phong kiến xưa.

Trên đại môn của cung đình thường được trang trí bằng 81 chiếc núm đinh (9 dọc, 9 ngang). Trên Thạch môn (cửa làm bằng đá) của Địa Cung ở Định Lăng, Bắc Kinh cũng chạm khắc 99 đinh đá lớn. Nếu tới Lạc Dương tham quan Quan Đế miếu, du khách cũng sẽ được chiêm ngưỡng 99 chiếc đinh gỗ được trang trí trên cửa Đại Hồng miếu. Tuy Quan Vũ không phải bậc đế vương, nhưng hậu thế vì để bày tỏ lòng tôn kính với ông như với một vị hoàng đế nên đã tạo ra lối kiến trúc độc đáo này.

Thông thường, hoàng cung thời phong kiến thường xây dựng 9 sân, ngay cả Khổng Miếu (Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông) cũng là một quần thể kiến trúc có quy mô hoành tráng với 9 sân. Thực tế này cho thấy, bậc đế vương xưa đã rất tôn kính và coi trọng đại thánh nhân Khổng Tử.

Cố Cung. 

Theo thống kê, Cố Cung ở Bắc Kinh có hơn 9.900 gian. Thậm chí, có người còn thích phóng đại thêm đôi chút khi đưa ra con số 9.999 phòng. Được biết, theo quan niệm của người Trung Quốc, số 9 khi kết hợp với số 5 sẽ mang ý nghĩa tượng trưng cho sự tôn nghiêm của thiên tử. Vì vậy, thành lầu Thiên An Môn rộng 9 gian, sâu 5 gian, Trong khi đó, kết cấu kiến trúc 9 rường và 18 cột của chòi gác (ở trên góc thành) ở Cố Cung cùng với tường được trang trí bằng hình chín con rồng ở Bắc Hải, Đại Đồng, Cố Cung đều chứa đựng ý nghĩa cát tường và rất mực tôn nghiêm.

Riêng với kiến trúc Di Hòa viên – viên lâm hoàng gia nổi tiếng của Trung Quốc có chiếc cầu đá với kết cấu 17 vòm phía dưới cũng có mối “nhân duyên” đặc biệt với số 9. Dù có đếm từ đầu nào tới vòm chính giữa của cầu, thì vòm này đều là vòm thứ 9.

Cây cầu đá có 17 vòm ở Di Hòa Viên. 

Viên Khâu Đàn thuộc Thiên Đàn là nơi tế trời của hoàng đế triều Minh Thanh và cũng nổi tiếng là một kiến trúc đặc biệt liên quan tới con số đầy ý nghĩa này. Đàn được phân thành ba tầng: thượng, trung và hạ. Thượng tầng do 9 tấm đá đồng tâm hợp thành. Vòng thứ nhất, tức vòng trong cùng được hợp thành bởi 9 miếng đá hình quạt. Vòng thứ hai là 18 miếng (tức 9 x 2), vòng thứ ba là 27 miếng (tức 9 x 3)…Được biết, Viên Khâu Đàn là bệ thờ chính của khu Thiên Đàn. Hằng năm, vào ngày Đông chí, bậc thiên tử sẽ tới đây để cử hành lễ tế trời, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Nghi lễ sẽ phải tiến hành rất cẩn thận và tránh những sơ xuất dù là nhỏ nhất để xã tắc năm tới được bình yên, phát triển thịnh vượng. Hiện tại, Viên Khâu Đàn nói riêng và Thiên Đàn nói chung là di tích văn hóa lớn mang tính biểu tượng của một Bắc Kinh cổ kính, giàu truyền thống lịch sử.

Viên Khâu Đàn thuộc Thiên Đàn. 

Ngoài ra, con số 9 còn được người Trung Quốc xưa vận dụng trong những trường hợp khác. Vào những dịp lễ lớn trong năm, hoàng cung nhà Thanh thường mở đại tiệc với số phẩm vật luôn là 99. Hay trong dịp mừng sinh nhật của hoàng đế, người ta buộc phải tổ chức đủ 81 (9 x 9) tiết mục với hàm ý cầu chúc cho bậc thiên tử may mắn, trường thọ…

Thứ Năm, 3 tháng 4, 2014

10 bí ẩn chưa được “vén màn” sự thực

Thế giới xung quanh đang tồn tại một thế lực siêu nhiên khác hay đó chỉ là những điều hết sức bình thường mà con người chưa từng nghĩ đến?

1. Tấm vải liệm Turin


Tấm vải liệm Turin là một tấm vải lanh có hình ảnh của một người chết do bị đóng đinh trên thánh giá. Tấm vải liệm này được coi là tấm khăn dùng để mai táng chúa Jesus sau khi ông bị hành hình. Nhiều nhà khoa học đã tìm kiếm và lý giải nguồn gốc của hình ảnh trên tấm vải liệm, nhưng đến nay nó vẫn là một bí ẩn của thế giới và gây tranh cãi lớn trong lịch sử.

Năm 1988, các nhà nghiên cứu đã thực hiện kiểm tra phóng xạ cacbon trên tấm vải liệm, họ chỉ rút ra được kết luận, tấm vải thuộc về thời trung cổ. Điều đặc biệt là các nhà khoa học không thể tạo ra được một bản sao tương tự, mỗi lần làm được một bản sao thì các hình ảnh trên bản sao lại biến mất một cách kỳ lạ. Tấm vải hiện được cất giữ ở nhà thờ lớn trên đường John the Baptist, (Turin, Italy).
Con tàu ma Mary Celeste. 

2. Vụ mất tích bí ẩn trên con tàu ma Mary Celeste

Ban đầu, tàu Mary Celeste có tên là Amazon. Amazon được hạ thủy năm 1860 tại Nova Scotia. Do có dính đến quá nhiều tai nạn và chuyển chủ nhiều lần, Amazon đã bị đem ra bán đấu giá tại New York, được trả 3.000 USD và đổi tên thành Mary Celeste. Ngày 7/11/1872, thuyền trưởng Briggs cùng vợ, cô con gái nhỏ và đoàn thủy thủ 8 người xuất phát từ New York trên Mary Celeste đi đến Geno (Italy). Tàu còn chở 1.700 thùng rượu nguyên chất. Tuy nhiên lần này, tàu lại tiếp tục gặp "tai nạn". Ngày 5/12/1872, người ta tìm thấy con tàu không người lái giữa eo biển Gibralta. Con tàu tự di chuyển vô định theo hướng gió. Mọi vật dụng trên tàu đều còn nguyên: Thực phẩm, nước uống, những thùng rượu, quần áo của các thủy thủ và cả bữa ăn sáng được dọn ra trên bàn như đang được dùng dở… nhưng không còn một bóng người trên tàu. Các đoàn cứu hộ được cử đi tìm kiếm người trên tàu nhưng tất cả đều thất bại. Tất cả đều như bốc hơi vào không khí và không để lại một dấu vết gì của sự bắt cóc hay va chạm.

3. Tiếng ầm ì vang lên từ lòng đất
Không có động đất, không có một giàn khoan dầu nào hoạt động nhưng những tiếng ầm ì cứ đều đặn vang lên ở một vài nơi trên thế giới, nhất là ở Mỹ và Bắc Âu. Tiếng ầm ì này là âm thanh có cường độ thấp, chỉ nghe được trong không gian tĩnh lặng. Nhiều người cho biết, nó giống như tiếng động cơ Diesel từ xa vọng lại. Ngay cả microphone hay ăng ten VLF hiện đại cũng không thể nhận dạng được âm thanh kỳ lạ này. Năm 1997, các nhà khoa học Hoa Kỳ đã tập trung tại viện nghiên cứu hàng đầu quốc gia để quan sát và tìm hiểu về âm thanh kỳ lạ xuất hiện ở vài nơi trong thị trấn Taos, Mexico. Đến nay, tiếng ầm ì vẫn còn là một câu hỏi lớn, nguồn gốc của nó đang thách đố các nhà khoa học tìm lời giải.

4. Quái vật hồ Loch Ness
Quái vật Loch Ness được coi là sinh vật cổ đại lớn sống trong hồ nước ngọt Loch Ness ở Anh. Năm 1933, George Spicer - một người đang bắt cá trên hồ Loch Ness đã bất ngờ nhìn thấy một con vật kỳ lạ bơi qua đầu tàu của mình. Nó di chuyển với tốc độ rất nhanh khiến thuyền chao đảo mạnh. Theo nhận định của Spicer, nó giống như một con cá lớn nhưng với những gì Spicer chứng kiến thì nó không phải là cá. Sau đó, liên tiếp nhiều người đã chụp được ảnh và quay video về con quái vật bí ẩn này nhưng tất cả đều là những hình ảnh rất mờ, không đủ để kết luận một điều gì. Bởi vậy, đến nay, quái vật hồ Loch Ness vẫn là con vật bí ẩn và chưa được xác định có thật hay không.

Bản thảo Voynich - quyển sách bí ẩn nhất thế giới. 

5. Bá tước Saint Germain
Sự xuất quỷ nhập thần của bá tước St. Germain vẫn là câu hỏi đối với những người đã từng gặp ông và biết về ông. Không ai biết xuất xứ của Germain và ông cũng biến mất không để lại một dấu tích. Ông được biết đến là người có kiến thức uyên thâm, có khả năng biến than thành vàng, ngọc và kim cương. Đặc biệt, những người từng gặp ông đều có chung một nhận xét: "Bá tước St. Germain là người không tuổi". Lần nào họ gặp ông, trông ông cũng như vậy dù các lần gặp gỡ đó cách nhau đến hàng chục năm. Sau khi bá tước qua đời, có rất nhiều tổ chức huyền bí đã xem ông như một hình mẫu hoặc thậm chí là thánh thần có sức mạnh to lớn.

6. Bản thảo Voynich sấm truyền
Đây là tập tài liệu thời Trung cổ, viết bằng hệ thống ký tự và ngôn ngữ kỳ lạ. Mở bản thảo Voynich ra, người ta dễ dàng nhận thấy, nét chữ rất đều, sạch sẽ, hình vẽ minh họa thực vật và động vật rất sống động nhưng cũng rất kỳ lạ, trông giống như hình ảnh của các sinh vật ngoài Trái đất và các ký tự không ai có thể hiểu được ngoài chính tác giả của nó. Bản thảo Voynich được phát hiện vào thế kỷ XX. Các chuyên gia bao gồm cả các thành viên xuất sắc nhất của cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ đã đầu tư rất nhiều tiền của để giải mã các thông điệp trong bản thảo, nhưng vẫn không thể tìm được chút bí mật nào từ chúng. Họ chỉ biết, theo một tài liệu lịch sử năm 1666, tập bản thảo được Hoàng đế Rudolf II mua lại với giá rất cao. Vua Rudolf cho rằng, tập bản thảo được viết bởi nhà tiên tri Roger Bacon sẽ ẩn chứa những lời sấm truyền cho tương lai.

7. UFO của người ngoài hành tinh
Năm 1878, người đầu tiên nhìn thấy UFO là một nông dân ở Texas. Theo lời kể của người này, đó là một đĩa bay hình tròn di chuyển với tốc độ rất cao. Nó phát ra ra một luồng ánh sáng cực lớn và bất chợt biến mất trên bầu trời. Năm 1950, UFO được phổ biến rộng rãi hơn. Nhiều giả thiết về người ngoài hành tinh bắt đầu tràn lan khắp nơi. Người ta cho rằng, Trái đất sắp bị xâm chiếm bởi những người sống ngoài vũ trụ. Những câu chuyện xung quanh UFO được truyền nhau với tốc độ nhanh chóng mặt. Từ đó đến nay, UFO liên tục được bắt gặp và vô tình lọt vào ống kính máy ảnh của các nhà nghiên cứu, những người dân thường. Có người cho rằng, các nhà nghiên cứu đang nắm trong tay một số thi thể của người ngoài hành tinh và một chiếc UFO của họ. Tuy nhiên, người ngoài hành tinh và UFO vẫn là một bí mật chưa thể tiết lộ đối với toàn nhân loại.

8. Quái vật chân to Bigfoot
Quái vật chân to Bigfoot là những con thú đồ sộ trông như con người với cơ thể phủ đầy lông và bàn chân cực lớn. Nhiều nhân chứng trên khắp nước Mỹ đã vô tình bắt gặp và kể lại cho mọi người nghe. Bigfoot cũng nhiều lần lọt vào tầm ngắm của các tay săn ảnh như quái vật hồ Loch Ness, nhưng sự tồn tại của Bigfoot cũng chỉ nằm trong lời kể và các bức hình "mờ mờ". Chưa một nhà nghiên cứu nào tìm thấy một Bigfoot thực sự hay chứng kiến dấu vết của chúng. Bigfoot có tồn tại thực sự hay không? Khoa học vẫn tiếp tục theo đuổi con vật được kể lại này dù rằng nó vẫn tránh xa mọi ánh mắt tò mò của con người.

Bãi đá Stonehenge lịch sử. 

9. Bãi đá Stonehenge
Stonehenge là một công trình tượng đài cự thạch thời kỳ đồ đá mới và thời kỳ đồ đồng gần Amesbury, thuộc hạt Wiltshire ở Anh. Xung quanh nó những bí ẩn thú vị chưa thể giải mã. Theo một truyền thuyết, bãi đá Stonehenge được tạo ra khi nghệ sĩ thổi sáo ma mị đã dẫn các trinh nữ vào cánh đồng để nhảy múa và sau đó biến họ thành đá. Có nhiều giả thiết về những người đã xây dựng nên công trình bí ẩn này. Có người cho rằng, người ngoài hành tinh đã tham gia xây dựng lên Stonehenge với mục đích riêng. Các giả thiết về mục đích của vòng đá Stonehenge cũng được đặt ra. Các nhà khoa học phán đoán, Stonehenge được sử dụng như một loại lịch cổ xưa. Nhưng cũng có giả thiết cho rằng vòng đá mô tả cơ quan sinh sản của phụ nữ.

10. Babushka
Đó là một người phụ nữ bí ẩn luôn theo sát Tổng thống John F.Kennedy trong vụ ám sát năm 1963. Người phụ nữ này mặc áo choàng màu nâu và trùm khăn lên đầu (cái tên Babuska được lấy từ chữ viết trên chiếc khăn). Babuska xuất hiện trong rất nhiều bức ảnh chụp tại thời điểm vụ ám sát xảy ra với một chiếc camera trên tay. Thậm chí sau phát súng, gần như tất cả mọi người bỏ chạy, Babuska vẫn đứng lại và tiếp tục quay phim. Ngay sau khi rời khỏi đường phố Elm, cảnh sát FBI đã yêu cầu Babuska đưa lại đoạn phim cô vừa quay nhưng cô đã từ chối. Năm 1970, một người phụ nữ tên là Beverl Oliver tự nhận mình chính là Babushka, tuy nhiên những gì cô kể lại có nhiều điểm mẫu thuẫn. Cho đến nay, Babushka là ai, có nhiệm vụ gì vẫn là câu hỏi hóc búa với nhiều người.

Thứ Tư, 2 tháng 4, 2014

Vì sao loài người tôn thờ rắn?

Rắn mang ý nghĩa biểu trưng rất phong phú, đi vào đời sống văn hóa tâm linh của nhân loại. Vì sao con người lại thần thánh hóa và tôn thờ loài vật này tới vậy?

Linh thiêng thờ rắn


Trên thế giới, người dân ở khắp các châu lục đều tôn sùng và thờ phụng rắn. Ở châu Úc, các thổ dân tôn sùng và thờ rắn cầu vồng khổng lồ. Với họ, rắn cầu vồng tượng trưng cho nước, là thực thể tâm linh lâu đời nhất.

Ở châu Phi, hình tượng rắn được thờ phụng ở rất nhiều quốc gia, dưới nhiều hình thức biểu hiện khác nhau. Tại Congo, uy lực tối cao của trời là con rắn Điămbô, không ai có thể ngồi lên lưng nó được. Ai trèo lên là lại tụt xuống thấp ngay. Người Ngbandi phía bắc Congo thờ rắn như thờ vị thần tối cao của dân tộc.

Người Whydah xem mãng xà như những vị thần linh thiêng. Nếu ai vô tình giết chúng thì sẽ bị trừng phạt, thậm chí nếu đó là người ngoại quốc sẽ bị chặt đầu.

Rắn được xem như là một biểu tượng của sự bất tử ở Ấn Độ.

Một số địa phương của Liberia lại gắn rắn với niềm tin về bói toán, tiên tri. Người dân ở miền nam Nigeria quan niệm, mỗi con mãng xà có một linh hồn con người bên trong nó. Linh hồn được giải phóng bằng nghi lễ sau cái chết của những loài bò sát và bất cứ hành vi phạm tội nào chống lại con rắn là một tội phạm đối với tổ tiên.

Những con rắn đã nhập vào các tôn giáo Ai Cập như một biểu tượng của thánh thần, của sự mê hoặc, đôi khi nó được tin như một lời sấm, lời tiên tri, thậm chí là một đấng tối cao. Thời cổ xưa, người Ai Cập cho rằng rắn là thần hộ mạng cho các vị vua chúa.

Ở châu Âu, tục thờ rắn phổ biến trong các cư dân sống quanh lưu vực những con sông. Một số nơi như Ba Lan, mỗi hộ gia đình thường giữ một con rắn trong nhà như là một thần bảo hộ. Ở đây, rắn được thần thánh hóa, được sùng kính và thờ cúng.

Tại khu rừng nhỏ của Apollo ở Epirus, hàng năm diễn ra các lễ hội lớn, những tu nữ trinh tiết khỏa thân mang thực phẩm hiến tế rắn thiêng. Ở Đan Mạch và một số hòn đảo thuộc Anh quốc, tín ngưỡng thờ rắn gắn với các nghi lễ hiến tế. Người ta thường tổ chức các nghi lễ này tại các gò đất, gần hồ và hiến tế các vật cúng cho rắn.

Ở châu Mỹ, một số bộ lạc thổ dân tôn kính loài rắn chuông như ông vua của loài rắn. Con rắn đã được coi như là cửa ngõ giao thoa giữa hai thế giới với người dân nhiều nền văn hóa Trung Mỹ. Không chỉ là biểu tượng của vị thần sáng thế, người Mexico cổ còn xem rắn như một vị thần bảo hộ của gia đình. Người ta có thể để nó sống như những thành viên trong nhà.

Thần rắn Naga ở Campuchia.

Ở châu Á, tại Iran, quốc gia sở hữu vườn treo Babylon huyền thoại, người ta đã tìm thấy dấu vết của tín ngưỡng thờ con rắn thiêng qua các hình vẽ, vòng tròn được chạm khắc trên vách các hang động. Người Ba Tư cổ thì thờ rắn rất thành tâm, kính trọng và rắn được coi như những vị thần vĩ đại nhất của họ.

Rắn được xem như là một biểu tượng của sự bất tử ở Ấn Độ. Tín ngưỡng thờ rắn đã ăn sâu trong đời sống văn hóa của cư dân nhiều vùng lãnh thổ của đất nước này. Ở Trung Quốc hay các nước Đông Nam Á, tục thờ rắn cũng rất phổ biến. Trong tín ngưỡng dân gian của người Campuchia, thần rắn Naga là một vị thần tối thiêng. Trong văn hóa dân gian Việt Nam, rắn cũng là một hình tượng có sức ám ảnh mạnh mẽ.

Tại sao rắn được tôn thờ?

Với người Việt Nam, rắn là con vật hiểm ác, đáng sợ, không thân thiện với con người. Nhưng cũng chính vì những đặc tính đó mà con người thần thánh hóa loài rắn, thờ cúng rắn như một vị thủy thần để cầu thân với rắn, mong muốn không bị rắn làm hại.

Ở một số nước trên thế giới, người dân không sợ rắn, họ coi rắn như những người bạn và có thể sống chung, nuôi rắn trong nhà. Việc họ tôn thờ rắn xuất phát từ các huyền thoại thần rắn lông chim, rắn lông vũ, quái vật nửa người nửa rắn, rắn cầu vồng... rất ly kỳ.

Trong những câu chuyện giải thích lý do con người tôn thờ rắn, thì loài vật này được miêu tả có hình dáng lạ và có uy lực rất khủng khiếp. Thế nhưng, cách lý giải thuyết phục nhất lại xuất phát từ hình dáng, đặc điểm thực tế của loài vật đặc biệt này.

Rắn là loài vật bí ẩn với con người.

Rắn là loài vật gây cảm giác sợ hãi và kính nể. Rắn vừa có sức cuốn hút đặc biệt, và cũng như cỗ máy giết người. Rắn sống ở hầu hết mọi nơi trên hành tinh.

Rắn có đủ các màu sắc, kích cỡ, có thể sống được ở hầu hết các môi trường tự nhiên. Từ trên núi cao đến biển sâu, từ sa mạc đến rừng rậm, trên cây hay dưới đất. Tuy không có chân nhưng khả năng di chuyển của rắn rất nhanh mà không gây ra tiếng động. Rắn có thể di chuyển nhiều tư thế: bò ngang, thẳng, nửa dưới đất nửa thẳng đứng... Với con người, rắn vừa có hại, vừa có lợi.

Loài rắn cũng có đặc tính lột da, do vậy nó biểu trưng cho sự tái sinh, bất tử. Vì là đối tượng rất khó nắm bắt, luôn mang đến cho con người sự ngạc nhiên và bí ẩn nên loài rắn thường được thần thánh hóa như vậy.

Thứ Ba, 1 tháng 4, 2014

Gò trên lòng bàn tay nói lên điều gì?

Gò của bàn tay là những mô thịt nằm trên các khu vực khác nhau trong lòng bàn tay. Tính cách và thậm chí đặc điểm của cơ thể cũng được thể hiện qua các gò trong lòng bàn tay.

Các gò chính nổi trên lòng bàn tay bao gồm:

- Gò Mộc Tinh nằm dưới ngón trỏ, tượng trưng cho uy quyền.

- Gò Thổ Tinh nằm dưới ngón giữa, tượng trưng cho định mệnh.

- Gò Thái Dương nằm dưới ngón đeo nhẫn, tượng trưng cho năng khiếu và tài năng.


- Gò Thủy Tinh nằm dưới ngón út, tượng trưng cho sự thông minh và hiểu biết.

- Gò Hỏa Tinh âm nằm dưới gò thủy tinh, phần giữa, gần cạnh bàn tay, tượng trưng cho sức chiến đấu.

- Gò Thái Âm nằm dưới gò Hỏa Tinh, phần cuối, gần cạnh bàn tay và cổ tay, tượng trưng cho trí tưởng tượng.

- Gò Kim Tinh nằm dưới ngón tay cái, tượng trưng cho tình cảm, sức khỏe và cuộc sống của từng người.

- Gò Hỏa Tinh dương nằm giữa gò Kim Tinh và Mộc Tinh, tượng trưng cho lòng can đảm và sự tự tin.

- Cánh đồng Hỏa Tinh là phần trũng nhất, nằm ở chính giữa của lòng bàn tay, được xem như cái khóa cuối cùng để kiểm soát các gò khác.