Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 27 tháng 5, 2014

Khu dân cư 11.000 năm tuổi dưới biển Baltic

Các nhà khảo cổ Thụy Điển mới đây khai quật được nhiều cổ vật nằm dưới biển Baltic ở Bắc Âu, được cho là thuộc về một khu dân cư cổ từ thời kỳ đồ đá.


Cổ vật được tìm thấy bao gồm các mẩu gỗ, dụng cụ bằng đá, sừng động vật, dây thừng, một cây lao móc được chạm nổi làm bằng xương động vật, các phần xương của một loài động vật cổ đại được gọi là auroch hay bò rừng châu Âu và nhiều đồ vật khác. Chúng được phát hiện ở độ sâu gần 16m so với về mặt nước ở vịnh Hano, ngoài khơi tỉnh Skane, Thụy Điển.

Theo Discovery News, những đồ vật này được cho là thuộc về người dân du mục Thụy Điển từ cách đây 11.000 năm. Đây có thể là bằng chứng về một trong những khu dân cư cổ nhất từng được tìm thấy ở Bắc Âu và được mệnh danh là thành phố địa đàng Atlantis ở Thụy Điển. Atlantis được cho là đã bị nước biển nhấn chìm và chôn vùi dưới biển sâu khoảng năm 9.600 trước Công nguyên.

Các cổ vật được tìm thấy dưới biển Baltic. (Ảnh: Arne Sjostrom)

Bjorn Nilsson, giáo sư khảo cổ học của Đại học Sodertorn cho biết, điều ngạc nhiên là những cổ vật này đều được phát hiện trong tình trạng tốt. Theo nhóm nghiên cứu, một dạng trầm tích có màu đen, dạng đặc quánh được gọi làgyttja, hình thành khi các lớp than bùn phân hủy, đã bảo vệ các cổ vật trong hàng nghìn năm.

Nhóm nghiên cứu của Nilsson vẫn đang tiếp tục khai quật nhằm tìm kiếm một nơi chôn cất ở khu vực này.

Thứ Hai, 26 tháng 5, 2014

Bức thư tình cảm của người lính La Mã cổ từ 1.800 năm trước

Bức thư đã tiết lộ phần nào tình cảm và nỗi nhớ mong của người lính La Mã khi tham gia chiến đấu cho quân đội.

Mới đây, nội dung bức thư với niên đại 1.800 năm của một binh sĩ Ai Cập viết cho gia đình đã được hé lộ. Tên của người lính được cho là Aurelius Polion – tình nguyện tham gia chiến đấu cho quân đội La Mã tại châu Âu.

Hơn một thế kỉ trước, đoàn khảo cổ học do Bernard Grenfell và Arthur Hunt dẫn đầu đã phát hiện ra bức thư cổ này ở phía ngoài một ngôi đền thuộc thị trấn Tebtunis, Ai Cập. Tuy nhiên, chỉ mới gần đây, Grant Adamson – một ứng cử viên cho học vị tiến sĩ tại ĐH Rice đã tạo ra hình ảnh hồng ngoại của bức thư để tìm hiểu nội dung kĩ hơn.

Mặt trước lá thư bị mất khá nhiều phần

Nội dung lá thư hé lộ rằng, chàng trai trẻ có mâu thuẫn với mẹ và đang lên kế hoạch sớm trở lại thăm gia đình. Ngoài các phần viết thư hỏi thăm mẹ (một người bán bánh mì), em gái và em trai, trong thư cũng có đoạn như sau: “Anh luôn cầu nguyện để em có sức khỏe tốt và luôn thay mặt em thể hiện lòng thành kính với Đức Chúa trời. Anh không thể ngừng viết cho em, nhưng em chẳng nhớ gì tới anh thì phải. Anh cảm thấy khá lo lắng vì biết rằng, dù em nhận được rất nhiều lá thư của anh, nhưng em không hồi đáp lại dù chỉ một lần, để anh biết…”.

Phần kết của câu trên không còn nguyên vẹn. Các nhà nghiên cứu đã dịch được phần lớn lá thư, nhưng do lá thư đã bị hư hỏng và mất một vài mảnh nên nhiều đoạn bị thiếu.

Mặt sau lá thư với lời chỉ dẫn tới nhà người bạn cựu binh

Trong thư, người lính trẻ kể lại rằng, anh đã viết 6 lá thư về cho gia đình nhưng không hề nhận được hồi âm. Anh lo lắng hỏi, liệu gia đình có đang gặp vấn đề gì hay không. Anh cũng viết: “Anh sẽ xin tướng chỉ huy cho về thăm gia đình, lúc ấy anh sẽ gặp em để nhắc nhở rằng, anh là anh trai của em”.

Bức thư phần nào thể hiện tình cảm gia đình vẫn luôn chi phối tinh thần họ dù cho họ chỉ là những người lính tình nguyện tham chiến.

Phía mặt sau của lá thư là những chỉ dẫn giúp người đưa thư tìm được nhà một cựu binh lính mang tên Acutius Leon – người sẽ chuyển lá thư tới gia đình của Polion.

Ngôi đền nơi tìm thấy lá thư

Mặc dù vào thời kì này, Đế chế La Mã đã phát triển hệ thống thư tín riêng trong quân đội nhưng có lẽ Polion đã không sử dụng. Thay vào đó, binh lính trẻ này cảm thấy tin tưởng người cựu binh Acutius hơn. Hiện nay, bức thư đang được cất giữ tại Thư viện Bancroft, ĐH California (Mỹ).

Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2014

Các khu vực “khiến con người biến mất” có thật trên Trái đất

Nói đến các khu vực này, nhiều người cũng đã cảm thấy khiếp sợ với những vụ mất tích bí ẩn trước đó…

Hãy cùng ngược dòng thời gian và tới thăm những khu vực thường xảy ra những vụ mất tích bí ẩn trên Trái đất…

1. Tam giác quỷ Bermuda

Tam giác Bermuda nằm ở phía Tây Đại Tây Dương, gồm 3 đỉnh tam giác là quần đảo Bermuda ở phía Bắc; thành phố Miami, Florida ở Tây-Nam và đảo Puerto Rico ở phía Nam. Đối với người đi biển, cái tên này đủ để khiến tất cả khiếp sợ, bởi đơn giản đây là vùng biển của những hiện tượng thiên nhiên kì quái và mất tích bí ẩn.


Trong hơn một thế kỷ trở lại đây, nơi này ghi nhận rất nhiều những vụ mất tích tàu bè, thậm chí cả máy bay khi bay ngang vùng biển này mà không hề có một dấu tích. Nhiều trong số đó là chuyện tin đồn thêu dệt song cũng không ít là sự thật 100%.


Điển hình là sự cố “Chuyến bay 19” diễn ra ngày 5/12/1945. Theo đó, một đoàn 5 chiếc máy bay ném ngư lôi TBM Avenger của Mỹ khi đang được huấn luyện thì đột nhiên biến mất trên vùng biển thuộc Tam giác quỷ.

Trước khi biến mất, những phi công đã gửi tín hiệu radio về căn cứ với những mô tả đáng kinh sợ như “nước trắng”, “đại dương trông không như bình thường”…



Những nạn nhân của vụ mất tích bí ẩn.

Ngay sau khi đội bay TBM Avenger biến mất, một chiếc máy bay đã được phái đi từ căn cứ quân sự Mỹ để giải cứu. Nhưng cũng chỉ 23 phút sau khi cất cánh, chiếc này cũng “bặt vô âm tín”.

Cho tới tận ngày nay, người ta vẫn chưa tìm ra được một dấu vết nào còn sót lại của những chiếc máy bay này. Và lời nguyền của Tam giác quỷ Bermuda vẫn chưa đi tới hồi kết.


Liệu có thế lực siêu nhiên nào đã bắt cóc đoàn máy bay trên?

2. Biển quỷ
Từ thời cổ đại cho tới hiện đại, vùng biển quỷ (còn gọi là Tam giác Rồng) – phía Nam Tokyo đã là nỗi khiếp sợ của rất nhiều các thủy thủ có ý định đi qua đây, nhất là sau khi những ghi chép của một nhà tự nhiên học và chuyên gia thần bí Charles Berlitz được công bố.

Theo Charles, vào khoảng 1952 – 1954, Nhật Bản đã bị mất 5 tàu chiến và hơn 700 thủy thủ đoàn ở Tam giác Rồng. Hơn 100 nhà khoa học khác nhau đã từng đưa tàu tới đây nghiên cứu, khám phá cũng lần lượt… biến mất một cách kỳ lạ. Thậm chí, nhiều người còn rỉ tai nhau rằng năm xưa, Hốt Tất Liệt muốn xâm lược Nhật Bản nhưng đã đổ bể vì mất 40.000 quân tại đây.


Nghiên cứu lại truyền thuyết, người ta phát hiện rằng, biển quỷ là nơi sinh sống của một con rồng khổng lồ vào khoảng 1.000 năm TCN. Con rồng này tác oai tác quái, thường xuyên phun lửa tiêu diệt các tàu thuyền đi qua.


Con rồng trong truyền thuyết…


…có tới 99,99% là các ngọn núi lửa phun trào dưới đáy đại dương.

Nhiều người cho rằng, có lẽ sinh vật này có thật và là nguyên nhân chính gây nên những vụ mất tích bí ẩn tại đây. Tuy nhiên, giả thuyết trên có vẻ không thuyết phục bởi gần như chắc chắn, con rồng trong truyền thuyết chính là các ngọn núi lửa hoạt động ngầm dưới đáy biển. Và cho tới nay, nguyên nhân những vụ mất tích bí ẩn tại Tam giác Rồng vẫn còn là một ẩn số.

3. Ngôi làng bên hồ Angikuni
Ngôi làng của người Inuit bên hồ Angikuni, Canada sẽ chỉ là một vùng đất bình thường nếu như không có sự kiện kỳ lạ năm 1930. Tháng 11/1930, một thợ săn tên Joe Labelle khi tìm tới ngôi làng quen thuộc xin tá túc qua đêm bỗng phát hiện ra một điều kỳ lạ: toàn bộ khoảng 2.000 cư dân ở đây đột nhiên… bốc hơi biến mất.


Hình ảnh ngôi làng bên hồ Angikuni.

Quá đỗi ngạc nhiên, Joe lại tìm thấy những chiếc áo sơ mi còn đang khâu dang dở, mọi đồ đạc, thức ăn vẫn còn y nguyên vị trí. Cho rằng có điều gì bất thường, Joe liền đánh điện báo cho cảnh sát.

Qua điều tra, người ta tìm ra thêm những điều còn bí ẩn hơn: trong ngôi làng có 1 ngôi mộ đã bị đào xới lên và có xác của 7 con chó kéo xe bị chết vì đói dù thức ăn bỏ lại trong làng rất nhiều. Thậm chí khi ấy một số nhân chứng còn khẳng định đã nhìn thấy luồng ánh sáng kì lạ xuất hiện trên mặt hồ Angikuni vào thời điểm dân làng mất tích.


Sau một đêm, tất cả già, trẻ, gái, trai, lớn. bé trong làng đều biến mất.

Nhiều người cho rằng, rất có thể tộc người Inuit ở đây đã bị người ngoài hành tinh bắt đi. Thậm chí có ý kiến còn nói, thủ phạm của sự kiện trên là ma cà rồng. Song tất cả chúng chỉ dừng ở giả thuyết mà thôi.


Cho tới tận ngày nay, chưa một manh mối hay dấu vết về những người Inuit xưa được phát hiện và vùng đất bên hồ Angikuni vẫn là ẩn số đầy ám ảnh với chúng ta.

4. Hồ mất tích Michigan
Truyền thuyết kinh sợ về vùng tam giác hồ này bắt đầu từ thập niên 1937, với sự mất tích bí ẩn của thuyền trưởng George R. Donner. Khi đó, ông điều khiển con tàu của mình đi qua hồ Michigan, mang theo 9.800 tấn than hướng về Washington.

Đêm 28/4, George căn dặn thủy thủ đánh thức mình khi tàu gần tới nơi. Thế nhưng, chỉ ba giờ sau đó, ông mất tích. Thủy thủ đoàn tìm khắp nơi đều không có dấu vết của thuyền trưởng. Tất cả những gì còn lại là một cabin khóa trái từ bên trong không người.


Hình ảnh hồ Michigan trên bản đồ.

13 năm sau đó, chuyến bay 2501 chở 50 hành khách tới Minneapolis khi đi qua trung tâm Tam giác Michigan thì bỗng nhiên mất liên lạc và “độn thổ”. Khi tiến hành tìm kiếm, đội cứu hộ tìm thấy số lượng đáng kể bàn ghế, các mảnh vỡ trôi nổi trên hồ, song toàn bộ đống đổ nát của máy bay thì không hề được phát hiện


Người ta đã không bao giờ tìm được thuyền trưởng của con tàu này nữa.

Mới đây nhất, năm 1998, một chiếc máy bay phản lực Aero Vodochody L-39C cũng đã biến mất khi bay ngang qua hồ Michigan trong điều kiện thời tiết xấu, sương mù khá dày đặc. Và cho tới nay, chưa một dấu vết nào của vụ mất tích này được tìm ra.

Thứ Năm, 22 tháng 5, 2014

Dòng sông ngầm bí ẩn không bao giờ cạn ở Hòa Bình

Trong núi Chùa Hang ở tỉnh Hòa Bình, có một dòng sông ngầm trong mát, chảy mãi không bao giờ cạn. Nơi đây còn có nhiều điều bí ẩn về chiếc bàn cờ cổ, kho bạc Nhà nước và những vết tích từ nền văn hóa Hòa Bình.

Dòng sông ngầm không bao giờ cạn


Để được mục sở thị về ngọn núi kỳ diệu này, chúng tôi tìm đến núi Chùa Hang, ở xóm Á Đồng, xã Yên Trị, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình.

Anh Bùi Phi Diệp, Phó Chủ tịch xã Yên Trị, Trưởng Ban quản lý núi Chùa Hang đã kể tường tận cho chúng tôi nghe những câu chuyện li kỳ về ngọn núi này.


Cổng Chùa Hang từ phía dưới chân núi

Sau gần 1 giờ leo quanh sườn núi, cuối cùng chúng tôi cũng tới được cửa hang số 12. Đây là cửa hang dễ vào nhất trong tổng số 18 cửa dẫn tới dòng sông ngầm. Từ cửa hang đi sâu vào trong là căn hầm dài hàng chục ki lô mét, men theo đó hơn 2 ki lô mét nữa, anh Diệp bắt đầu đưa chúng tôi đi vào một ngách nhỏ, nói là ngách cho sang chứ thực chất nó chỉ nhỏ đến mức đủ lọt một người chui vào, chui ra.

Hiện ra trước mắt tôi lúc này là một hồ nước xanh ngắt, trong veo, đang bốc hơi với hàng nghìn nhũ thạch hoa đá ở trên nóc hang. Không giống như những con sông hay hồ khác, mặt nước trong này phẳng lặng như gương và có gì đó rất đặc biệt. Theo quan sát thì dòng nước dài đến hàng chục ki lô mét, kèm theo hơi khói bốc lên, khiến người ta có cảm giác như đang rơi vào cõi “bồng lai tiên cảnh”.

Anh Diệp cho biết: “Dòng sông này không biết có tự bao giờ, chỉ biết từ xa xưa, khi người dân quanh đây còn sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp, năm đó trời nắng nóng, hạn hán không có nước tưới cây. Người dân đi làm đồng về thấy có dòng nước từ trong núi chảy ra liền múc để tưới cây. Sau đó, bà con nông dân được một mùa bội thu. Kể từ khi ấy, mọi người ai ai cũng đến dòng suối mát trong này để tắm, giặt, sinh hoạt, nhiều người còn lấy nước về để pha trà, nấu cơm… xem đó như nguồn nước trời ban, như lộc thánh từ ngọn núi đem đến.

Đây là ngọn núi nằm độc lập, bốn bề đều là nhà dân. Điều khiến chúng tôi ai nấy đều ngạc nhiên là vì sao bao lâu nay dòng sông này vẫn tràn đầy sự sống, cứ mãi chảy mà không bao giờ cạn.


Dòng sông ngầm chảy mãi không bao giờ cạn.

Anh Diệp nói, dòng nước trong lòng núi xuất hiện từ khá lâu, thế nhưng chưa bao giờ cạn, mùa mưa thì nước dâng lên cao, mùa hạn thì vẫn đầy nước. Lúc nào nước từ trong hang cũng chảy ra không ngừng. Không chỉ thế, dưới lòng sông ngầm còn có rất nhiều cá, nhưng không ai dám bắt để ăn, vì sợ động vào thánh thần sẽ bị trừng trị, người dân sẽ mất đi nguồn nước tưới cây và sinh hoạt. Thời gian cứ thế trôi đi, lời đồn thổi của người dân càng khiến dòng sông ngầm trở nên bí ẩn.

Trước đây, thực dân Pháp dự định biến khu vực này thành vịnh Hạ Long trên cạn. Tuy nhiên, ý định này không thể thực hiện được, anh Diệp cho biết thêm.

Bàn cờ đá cổ và vết tích của nền văn hóa Hòa Bình
Vốn dĩ chùa có tên gọi là Chùa Hang vì nó gắn với câu chuyện về một vị quan thời bấy giờ. Theo lời kể, ngày xưa, một vị quan ở vùng đất này vì bị kiện nên đã đưa quân xuống phủ Nho Quan để kiện lại. Trên đường đi, vị quan này đã lên trên núi nghỉ ngơi. Sáng hôm sau thức dậy, vị quan thấy trong người khỏe mạnh lạ thường. Thấy thế, ông khấn rằng nếu đến phủ Nho Quan mà thắng kiện thì lúc trở về sẽ tạ ơn. Như lời khấn cầu, vị quan đã thắng kiện. Lúc về, ông đã sai quân mua đồ đến dâng lễ và nói cho người dân biết nơi này rất thiêng nên đã lập một ngôi chùa, lấy tên là Chùa Hang”.


Bức tường ốc là những vết tích từ nền văn hóa Hòa Bình

Từ đó cho đến nay, hằng ngày có rất nhiều người dân từ khắp nơi về đây cầu khấn. Cứ vào ngày 15 tháng Giêng âm lịch hằng năm, người dân lại tổ chức lễ hội để truyền tụng lại cho con cháu về các tích của núi và Chùa Hang.

Phía trước cửa chùa là một bàn thờ bằng đá, rộng khoảng 1m, dài 1,2m. Anh Diệp nói, không biết chiếc bàn cờ bằng đá này có tự bao giờ, chỉ biết các vua quan thời phong kiến ngày xưa thường ghé qua đây để cùng nhau chơi cờ, bàn chuyện thế sự.


Bàn cờ đá cổ

Nguyên sơ trên vách núi là một tấm bia khắc những dòng chữ Hán, bàn thờ bằng đá được chạm khắc tinh xảo. Những dòng chữ khắc trên vách núi chính là những lời ngợi ca của các vua quan về vẻ đẹp hoang sơ ở nơi đây.

Chỉ tay về phía bức tường đất với nhiều vỏ ốc, sò…, anh Diệp cho biết: Đây chính là những vết tích về nền văn hóa Hòa Bình. Bức tường cao khoảng 5m, dày và xếp thành từng lớp ốc xen lẫn đất đá.

“Lúc bấy giờ, người xưa đã sống trên núi này và vào trong hang bắt ốc, sò để ăn. Qua nhiều năm tháng, lớp này chồng lên lớp khác đã tạo nên những bức tường dày với nhiều vỏ ốc, vỏ sò. Đã có rất nhiều nhà khảo cổ học về đây nghiên cứu và kết luận đây là những vết tích từ nền văn hóa Hòa Bình để lại”, anh Diệp nói thêm.


Đường hầm – nơi cất giữ vũ khí và là kho bạc Nhà nước trong thời chiến

Không những thế, tại khu di tích núi Chùa Hang còn xuất hiện đường hầm dài hàng chục ki lô mét. Đây là đường hầm dùng để cất giữ vũ khí vào những năm kháng chiến. Khi đó, vũ khí được đưa về và chất lên thành hai dãy chạy thẳng với đường hầm. Tất cả số vũ khí đều được cất giữ để chuyển đến chiến trường ở Camphuchia, đường 9 Nam Lào và chiến trường miền Nam.

Đến năm 1978, người ta mới chuyển hết số vũ khí đi. Mãi sau này, đường hầm mới được dùng để làm kho bạc Nhà nước.

“Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có tài liệu chính xác nói về kho bạc Nhà nước trong lòng núi. Hiện chúng tôi đang cố gắng thu thập tài liệu và tiến hành tu bổ khu đường hầm thành di tích cách mạng, anh Diệp chia sẻ.

Thứ Tư, 21 tháng 5, 2014

Những câu chuyện máy bay mất tích bỗng dưng trở lại bí ẩn

Những vụ mất tích máy bay và tàu thuyền đã không còn là hiếm, nhưng điều kỳ lạ lại chính là sau khi mất tích một thời gian, chúng lại hiện trở về hoàn toàn nguyên vẹn. Giả thuyết về trục trặc kỹ thuật, khủng bố và cả nguyên nhân mất tích trong lỗ hổng thời gian, bị UFO bắt cóc đều được đề cập tới.Những chiếc máy bay, con thuyền trở về bí ẩn

Những vụ mất tích máy bay và tàu thuyền đã không còn là hiếm, nhưng điều kỳ lạ lại chính là sau khi mất tích một thời gian, chúng lại hiện trở về hoàn toàn nguyên vẹn. Những máy bay và tàu thuyền không còn người lái như là những linh hồn trở về Trái Đất từ một Vũ Trụ khác.

Năm 1985, tại vùng đầm lầy trong khu rừng rậm New Zealand, người ta phát hiện thấy một máy bay chở khách hai động cơ đã mất tích trước đó gần nửa thế kỷ. Điều khiến những người tìm kiếm không hiểu nổi là chiếc máy bay đó trông còn mới y như trước khi bị mất tích, không hề cũ đi hoặc biến dạng. Số hiệu trên máy bay vẫn rõ ràng, dễ đọc. Chiếc máy bay lấp lánh ánh bạc này mất tích trước đó 45 năm trên đường bay từ Manila Philippines đến đảo Mindanao. Trong khoang máy bay vẫn tìm thấy những tờ báo tuần thứ ba tháng 1 năm 1937, ngày Chủ nhật.

Một nhóm chuyên gia hàng không của quân đội Indonesia được cử đến hiện trường. Sau khi xem xét nghiên cứu chiếc máy bay “như còn mới” đó, khi trở ra, ai cũng tái mặt và kinh ngạc. Ngành chủ quản phụ trách nghiên cứu lập tức ra lệnh phong tỏa khu vực mới phát hiện ra chiếc máy bay đó.

Các điều tra viên lúc đầu khi mới trông thấy chiếc máy bay đó, không ai dám tim ở mắt mình nữa. Vỏ ngoài của nó trông vẫn mới, thân máy bay hoàn toàn không có một vết tỳ nào, những cánh cửa của nó vừa mở là được ngay, không hề có tiếng cót két hay răng rắc gì cả.



Những vụ mất tích bí ẩn của máy bay hay tàu bè trên đại dương rồi trở lại đột ngột nguyên vẹn làm đau đầu giới khoa học

Vào trong khoang máy bay không thấy người nào dù là sống hay chết. Nhưng trong máy bay cốc giấy, mẩu thuốc lá và mấy tờ báo năm 1937 vẫn chưa ngả mầu vàng, dường như mới đó vẫn đang có người ngồi trong máy bay. Trong một chiếc gạt tàn, có để một vỏ bao thuốc lá thơm, loại thuốc lá mác ấy lưu hành vào những năm 1930, nhưng vào thời Chiến tranh thế giới thứ II đã ngừng sản xuất. Còn những trang phục và kiểu đầu tóc trên tờ báo đều thuộc thời kỳ kinh tế khủng hoảng và suy thoái ở Mỹ. Trong phích nóng vẫn còn cafe nóng hổi, và mùi vị của nó vẫn thơm ngon, chưa hề bị biến mất.

Điều khiến cho các nhân viên điều tra ngạc nhiên nhất là tình trạng máy bay. Trong bình ắc quy của máy bay vẫn nạp đầy điện, chỉ vặn công tắc là đèn trong máy bay bật sáng. Thùng chứa nhiên liệu của máy bay hầu như vẫn đầy nguyên. Tất cả những điều đó khiến cho nhân viên điều ra sởn tóc gáy.

Chiếc máy bay đó trông như được hạ cánh khẩn cấp nhờ các bánh xe của nó, vừa may nó đỗ xuống được chỗ đất mềm trong vùng đầm lầy, nên hoàn toàn không bị hư hại gì, vẫn có thể bay trở lại như 50 năm trước đây. Các nhà khoa học vẫn tiếp tục điều tra về bí mật của việc máy bay đã mất tích từ lâu nay bỗng xuất hiện trở lại.

Theo ghi chép, những sự kiện tương tự cũng đã từng xảy ra vào thập niên 60. Một máy bay ném bom của Mỹ ngày 04 tháng 04 năm 1946 không quân Mỹ huy động lực lượng tìm kiếm suốt 500km vùng trời nơi nó mất tích, nhưng không kết quả gì. Bất ngờ, vào năm 1962 chiếc máy bay đó lại xuất hiện tại nơi cách sân bay mấy trăm mét. Thiết bị vô tuyến điện trên máy bay vẫn nguyên vẹn. Căn cứ theo phân tích máy móc thiết bị, dường như nó mới đõ xuống ngay chiều hôm đó, không ai nghĩ chiếc máy bay đã mất tích 17 năm.

Vào một ngày trời quang mây tạnh của năm 1984, tại bãi cát miền Bắc Mexico bỗng xuất hiện 05 máy bay quân sự Mỹ. Thân máy bay vẫn sáng bóng, thùng nhiên liệu vẫn chứa đầy xăng, nhưng trong máy bay thì trống rỗng chẳng có một người. Các chuyên gia Mỹ cho rằng: Cả 05 máy bay đó điều mất tích từ hồi năm 1945 lại vùng biển tam giác Bermunda. Nhưng việc đó vãn đang tranh luận, bởi có người nói rằng, phiên hiệu của máy bay đã mất tích nhiều năm lại xuất hiện trở lại là một sự thực không thể phủ nhận được.


Hơn 100 năm trước đây, ở Đại Tây Dương cũng từng phát hiện được một tàu đã mất tích nhiều năm trước đó. Đó là con tàu Meri Sairaistơ. Khi phát hiện ra nó thì trên tàu không có người, nhưng những đồ quý giá như vàng bạc, kim cương vẫn nguyên vẹn, không hề suy suyển. Xuồng cứu sinh và các đồ vật khác vẫn đầy đủ. Thậm chí trên tàu vẫn còn để lại những thứ trong bữa ăn đang ăn dở. Không biết người trên tàu đã bỏ đi đâu?

Đầu năm 1990, tàu buồm hai cột “Durixis” mất tích đã 24 năm bỗng nhiên lại xuất hiện, nó đỗ ở một bãi biển vắng vùng ngoại ô thành phố Caracat và Venezuela. Ba thủy thủ trên tàu khi được phát hiện ra (năm 1990) đều giật mình ngạc nhiên. Ngày 06 tháng 01 năm 1966 họ từ đảo Aroba ra khơi. Không ngờ khi họ vừa đánh bắt được con cá lớn, nặng tới 110kg thì bão ập tới. Mọi người vội vã đưa nhau đi tránh gió. Nào ngờ cơn hoảng sựo đã kéo dài đến 24 năm. Vụ tàu mất tích xuất hiện trở lại này, tuy trên tàu vẫn có người, không biết các nhà vũ kia, chỉ là những “tà linh hồn” trở lại.

Mất liên lạc vì thiên tai, lỗi phi công hay bị khủng bố?
Một trong những vụ mất tích máy bay nổi tiếng nhất diễn ra vào năm 2009. Khi đó, chiếc Airbus A330 của Air France trong chuyến bay chở theo 228 hành khách từ Brazil tới Pháp đã biến mất sau lúc gặp một cơn bão lớn trên Đại Tây Dương.

Phi hành đoàn trên máy bay đã gửi một tin nhắn từ động sau 4 giờ đồng hồ rời khỏi Rio de Janeiro và biến mất giữa đại dương, vượt ra ngoài phạm vi phủ sóng của radar trạm kiểm soát không lưu. Người ta cho rằng, chiếc máy bay đã bị sét đánh trúng.




Xác máy bay Airbus A330 của Air France

Xác máy bay chỉ được tìm thấy sau 2 năm tai nạn. Theo điều tra của các nhà chức trách Pháp vào năm 2012, sự cố này lại do nguyên nhân phi công có trình độ kém trong xử lý các tình huống bất ngờ khi gặp sự cố thiên tai. Chế độ lái tự động đã bị tắt và phi công đã làm cho máy bay bị mất tốc độ mặc dù động cơ vẫn hoạt động.

Thậm chí khi máy bay có khả năng chống sét thì khi rơi vào vùng nhiễu động thời tiết có thể khiến cho máy bay bị rơi tự do hàng trăm mét và không cẩn thận thì hoàn toàn có thể rơi hẳn. Vào khoảng tháng 8.2013, một chiếc máy bay A321 hiệu VN615 từ Hà Nội sang Bangkok, Thái Lan, bay ở độ cao 36.000 feet (tương đương 10.973 mét) cũng gặp sự cố này khiến máy bay rơi tự do 200 mét. Tuy nhiên, sau đó máy bay đã vận hành trở lại và về tiếp đất an toàn.

Vào tháng 4.2012, một chiếc máy bay UTair mất liên lạc với trạm kiểm soát ngay sau khi nó cất cánh từ Tyumen, Nga. Sau đó nó đã bị rơi cách sân bay 40 km và làm chết 33 người mà không rõ nguyên nhân.


Chiếc máy bay Boeing 727-223 mất tích bí ẩn vào năm 2003
Bí ẩn hơn là trường hợp chiếc Boeing 727-223 cất cánh từ một sân bay ở Angola mà không hề có liên lạc gì với trạm kiểm soát vào năm 2003. Chiếc máy bay bay thẳng ra Biển Altanic rồi không bao giờ được nhìn thấy một lần nữa. Một kỹ sư người Mỹ cùng trợ lý của ông là người Congo trên chiếc máy bay này cũng biến mất vĩnh viễn từ đó. Cả FBI và CIA của Mỹ cũng tiến hành tìm kiếm chiếc máy bay nhưng đều bặt vô âm tín.

Trong khi đó, hàng loạt báo cáo về các máy bay, tàu biển bị mất tích trong một khu vực vô cùng bí hiểm là vùng Tam giác quỷ Bermuda, phía tây Bắc Đại Tây Dương mà vẫn chưa thể nào giải thích được rõ ràng.

Mới tháng trước, một vụ tai nạn máy bay khác cũng xảy ra khiến 18 người thiệt mạng sau khi chiếc máy bay của hãng hàng không Nepal mất liên lạc với trạm kiểm soát trên mặt đất. Ngay hôm sau sự cố, đống đổ nát của máy bay đã được tìm thấy trên một ngọn đồi và nguyên nhân dẫn tới tai nạn được cho là do thời tiết xấu.

Ngoài ra, nguyên nhân máy bay rơi còn được đề cập tới là do hiện tượng khủng bố máy bay. Những vụ tấn công ngay trên máy bay có thể bằng các loại vũ khí như lựu đạn, bom đã từng xảy ra trong lịch sử. Mới đây nhất, các nhà chức trách Mỹ đã từng hai lần cảnh báo về loại bom được giấu trong giầy của những kẻ khủng bố. Liên quan đến sự cố máy bay Malaysia Boeing B777-200, giả thiết này cũng đã được giới phân tích đặt ra.

Hàng loạt nguyên nhân gây sốc được đồn đoán
Trước những vụ mất tích máy bay bí ẩn trên, các chuyên gia khoa học đã đưa ra nhiều giả thuyết giải thích khác nhau. Trong đó đáng lưu ý là giả thuyết cho rằng, máy bay bị mất tín hiệu liên lạc với trạm kiểm soát không lưu do bị rơi vào “lỗ hổng thời gian”.



Vùng “Tam giác quỷ” Bermuda huyền bí
Theo lý thuyết này, “lỗ hổng thời gian” thực chất là “thế giới phản vật chất” đang tồn tại trong vũ trụ. Khi nó tiếp cận với thế giới vật chất dưới tác động qua lại của lực hấp dẫn đến một mức độ nhất định sẽ làm cả hai thế giới này bị đổ vỡ và sinh ra năng lượng cực lớn tạo thành áp lực chia đôi hai hệ thống gây ra hiện tượng máy bay bị mất tích khi rơi vào thời điểm đó cho đến khi trường lực hấp dẫn bình thường mới thôi.


Trong điều kiện thích hợp, lỗ hổng thời gian xuất hiện hút lấy mọi vật để giải phóng qua đầu bên kia trong tương lai hoặc quá khứ.

Điều lưu ý ở chỗ, theo lý thuyết này máy bay có thể vẫn tồn tại và xuất hiện ở một thời gian khác trong tương lai hoặc quá khứ. Người ta cũng từng đồn đoán Airbus A330 của Air France đã rơi vào “lỗ hổng thời gian”. Dù máy bay sau đó được tìm thấy xác ở đại dương đã hé lộ một số nguyên nhân cụ thể. Nhưng nếu rơi vào lỗ hổng thời gian và mất tín hiệu radar thì hoàn toàn có thể làm cho phi công mất hướng lái máy bay và gây ra sự cố.

Thậm chí, một số người còn cho rằng, máy bay bị mất tích bị ẩn có thể do tác động liên quan đến UFO hay một điều gì đó của người ngoài hành tinh. Vào năm 1906, một phi công Frederick Valentich đã lái chiếc Cessna 182 bay từ King Island đến phía Nam Melbourne nhưng đã mất tích bí ẩn chỉ với dòng tin nhắn của phi công nhìn thấy 4 ngọn đèn xanh đuổi theo máy bay. Cha Valentich lúc đó cho rằng, sự mất tích của con trai ông do UFO gây ra, rằng từ 10 tháng trước sự cố con trai ông đã nhìn thấy vật thể lạ.


Tàu bè, máy bay có thể là nạn nhân của vụ bắt cóc bí ẩn do các UFO gây ra

Một cách giải thích có tính thuyết phục hơn theo các nhà khí tượng học Pháp, tai nạn máy bay có thể xảy ra khi rơi vào khu vực thời tiết có nhiều biến động nằm dọc đường xích đạo vốn được gọi là Vùng hội tụ giữa hai chí tuyến (Intertropical Convergence Zone), một khu vực được coi là nỗi ám ảnh của phi công và được mệnh danh là “Chiếc nồi u ám”.

Mặc dù có nhiều giả thuyết xung quanh vấn đề máy bay bị rơi nhưng không ít nhà khoa học cho rằng, nguyên nhân chủ yếu dẫn tới các sự cố này là do con người hoặc do những lỗi kỹ thuật, thiên tai.

Tuy nhiên, thế giới bí ẩn hơn so với suy nghĩ của con người rất nhiều. Trường hợp, phi công Australia Frederick Valentich ở câu chuyện kể trên bị mất tích cùng chiếc máy bay lại đột ngột xuất hiện vào năm 1978 hay những báo cáo ở Tam giác quỷ Bermuda đến nay vẫn là những thách thức với các nhà khoa học.

Thứ Ba, 20 tháng 5, 2014

Những bí ẩn xung quanh tượng nhân sư Ai Cập

Bức tượng đồ sộ đã tồn tại qua hàng nghìn năm nhưng dường như những tranh cãi xung quanh nó vẫn chưa đi đến hồi kết.

Sau khi giành được quyền lực tại Pháp và xưng bá tại Châu Âu, Napoleon bắt đầu nhìn sang lãnh thổ châu Phi. Đạo quân nước Pháp bắt đầu đổ bộ lên bờ biển Alexandria và tiến thẳng tới Cairo vào mùa hè năm 1798. Nhưng sự khắc nghiệt của thời tiết, cùng với màn chào đón không lấy gì làm thân thiện lắm của cư dân bản địa trở thành một thách thức thật sự với những người lính Pháp. Một số kêu gào đòi được trở về, một số khác tiêu khiển bằng những chuyến du ngoạn đến tượng đài Nhân Sư, một trong những kỳ quan bí ẩn của Ai Cập, tại thời điểm đó gần như đã bị chôn sâu dưới lớp cát dày.

Những người lính này đã bị cáo buộc vì đã đánh đổ chiếc mũi của tượng Nhân sư. Một vài nhà sử học cho rằng, họ đã sử dụng biểu tượng thiêng liêng này như một…. chiếc bia tập bắn. Nhưng những nghiên cứu của Frederick Lewis Norden cho thấy, chiếc mũi này đã biến mất khoảng 50 năm trước khi binh đoàn của Napoleon đặt chân đến đây. Thậm chí, nó có thể đã biến mất từ cách đây vài thế kỷ.


Sự vắng mặt của chiếc mũi chỉ là một trong những câu đố nan giải xung quanh bức tượng vĩ đại này. Đầu của tượng nhân sư, được khoác lên kiểu tóc truyền thống, vươn cao hơn 20 mét so với mặt đất, nằm yên lặng trên thân mình được khắc họa như hình dáng của một con sư tử với chiều dài gần 60 mét. Tượng nhân sư, cùng với Kim tự tháp và vô số những ngôi mộ khác cùng tọa lạc trong khuôn viên của Thành phố của người chết – một công trình vĩ đại được dựng lên bởi các Pharaoh Khufu, Khafre và Menkaure trong khoảng thời gian từ năm 2560 tới 2450 trước công nguyên.

Trong khi nụ cười của nàng Monalisa đã tiêu tốn không biết bao nhiêu công sức của nhiều nhà nghiên cứu trong vô số những cuộc tranh luận không có hồi kết, vẻ mặt khắc khổ và đầy vẻ chịu đựng của tượng nhân sư dường như lại là thứ ít được đem ra bàn tán nhất trong số những bí ẩn xung quanh bức tượng này. Đa số các sử gia Ai Cập đều thống nhất với nhau rằng, khuôn mặt ấy có những nét gần nhất với khuôn mặt của Pharaoh Khafre – cũng là điều dễ hiểu vì nó được khởi công trong thời kỳ trị vì của vị vua này.

Tuy nhiên, những lời đồn đại xung quanh bức tượng này dường như vẫn chưa bao giờ có được lời giải đáp xác đáng. Chính xác hơn, từ sau cuộc khai quật với quy mô đồ sộ của Emile Baraize bắt đầu từ năm 1926, dường như bức tượng này cho ra nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời.


Giữa hai bàn chân của tượng nhân sư là bia mộ của vua Thutmose IV, người đã trị vì Ai Cập từ năm 1400 đến năm 1390 trước công nguyên. Trên bia mộ khắc lại câu chuyện của chàng trai trẻ Thutmose, người đã ngủ gục dưới cái bóng vĩ đại của tượng nhân sư. Trong giấc mơ, nhân sư xuất hiện dưới hình dáng vị thần mặt trời – Horus, yêu cầu Thutmose làm tất cả những gì có thể để bảo vệ mình khỏi sự tàn phá của nắng, gió và cát. Đổi lại, Nhân sư hứa sẽ trao cho Thutmose quyền trị vì Ai Cập. Cả 2 bên đều đồng ý với thỏa thuận này, và vị vua tương lai này đã trở thành người đầu tiên khởi xướng một cuộc đại tu cho bức tượng.

Nhưng thành quả của cuộc tu sửa này cũng dần bị bào mòn theo năm tháng. Khí hậu khắc nghiệt của vùng sa mạc đã dần làm biến dạng khuôn mặt của bức tượng, biến nó trở thành nét mặt ẩn chứa sự đe dọa, một nỗi sợ hãi mơ hồ đến từ thế giới bên kia. Trên thực tế, người Ả rập đã đặt tên cho bức tượng này là Abu-hol – Kẻ reo rắc nỗi kinh hoàng.


Sự kỳ bí của bức tượng Nhân sư đã thu hút rất nhiều sự chú ý, đồng thời đặt ra vô số những giả thiết về sức mạnh siêu nhiên của bức tượng này. Một trong số đó là con đường dẫn đến thành phố Atlantis huyền thoại. Thực ra, những lời đồn đại về mối liên hệ này đã bắt đầu dấy lên từ khi Pluto bắt đầu viết về một xã hội không tưởng. Khoảng đầu thế kỷ 20, nhà ngoại cảm người Mỹ, Edgar Allan Cayce nói rằng ông đã nhìn thấy một căn phòng bên trong tượng nhân sư, nơi ẩn chứa bí mật về địa điểm của Atlantis. Ông cũng đưa ra tiên đoán rằng, căn phòng này sẽ được tìm thấy vào năm 1998.

Những nhà sử gia và những nhà khảo cổ học vẫn tiếp tục tranh cãi về tuổi thọ của bức tượng Nhân sư. Nhiều sử gia cho rằng, nó ra đời vào giai đoạn trị vì của vua Khafre (khoảng 2500 năm trước công nguyên). Năm 1996, một nhóm các nhà khảo cổ học và địa chất học, dựa trên hiện trạng của bức tượng, cùng với sự ước tính về mức độ tàn phá của gió, cát và mưa, đã đưa ra con số 4000 tuổi, trước thời vua Khafre khá lâu.


Sự khác biệt về phong cách kiến trúc của tượng Nhân sư so với những công trình xung quanh, sự không cân xứng về mặt tỷ lệ giữa đầu và thân mình cũng làm dấy lên khá nhiều thắc mắc cho các nhà nghiên cứu. Nếu những giả thuyết của họ là đúng, hẳn đã có một xã hội cực kỳ phát triển về mặt công nghệ đã từng tồn tại vào thời điểm đó, nhưng cũng đồng thời đã biến mất hoàn toàn mà không để lại bất cứ dấu vết nào.

Zahi Hawass, Tổng thư ký của Hội đồng tối cao Ai Cập về các di tích cổ, mặt khác, lại khẳng định rằng những giả thuyết trên là hoàn toàn không có cơ sở. Không có bất kỳ di tích nào trong khu vực Thành phố của người chết ra đời trước thời Ai Cập cổ đại, và những nghiên cứu địa chấn không cho thấy bất cứ một hang động hay căn phòng bí ẩn nào ở bên trong hay được chôn sâu dưới bức tượng. Đối với Hawass và những nhà khảo cổ học chính quy, câu đố khó giải nhất về bức tượng này, chỉ là việc làm cách nào để bảo vệ nó khỏi sự tàn phá của thời gian.

Bên lề…

Trong thần thoại Hy Lạp, tượng nhân sư từng xuất hiện như một người cản đường những lữ khách với nhiều câu đố hóc hiểm. Một trong những câu hỏi đó là: Loài vật nào có 4 chân, 2 chân, và rồi 3 chân?

Oedipus, vị vua xứ Thebes đã có câu trả lời chính xác: Con người. Đầu tiên họ bò bằng bốn chân, đi bằng 2 chân, và cuối cùng phải chống gậy (chiếc chân thứ ba) khi đã về già. Câu trả lời này đã buộc Nhân Sư phải tự sát.

Thứ Hai, 19 tháng 5, 2014

Bí ẩn về “hố tiền” nổi tiếng thế giới

Ghé thăm “hố tiền” – nơi nắm giữ một trong những kho báu bí ẩn nổi tiếng nhất thế giới.

Cuộc tìm kiếm kho báu nổi tiếng của đảo Oak đã diễn ra gần 200 năm nhưng bí ẩn này vẫn là một bài toán khó đối với hàng vạn nhà nghiên cứu và thám hiểm trên khắp thế giới.



Đảo Oak nằm ở vịnh Mahone thuộc bờ biển phía Nam Canada là nơi nắm giữ một trong những bí ẩn nổi tiếng nhất của thế giới. Được biết đến với cái tên “hố tiền” (Money Pit), kho báu này đã thu hút vô số kẻ tò mò tìm đến với hy vọng trở nên giàu có.




Nhiều tài liệu ghi lại cho rằng, vào thập niên 1600, giới săn tìm luôn truyền miệng nhau về kho báu khổng lồ mà gã thuyền trưởng cướp biển William Kidd chôn giấu ở đâu đó “phía Đông Boston“. Một thủy thủ đoàn của William đã tiết lộ điều này, nhưng hắn chưa kịp nói ra địa điểm nơi chôn giấu thì đã mất.


Một số người cho rằng, đó là một kho báu được chôn giấu, số khác lại khẳng định nơi đây cất giữ chén Thánh huyền thoại. Tuy nhiên, mỗi lần có người cố gắng đào bới tìm kiếm thì hố đất lại tự động sụp xuống như lời cảnh báo và để bảo vệ an toàn cho bí mật nằm bên dưới. Càng tìm kiếm sâu hơn, người truy lùng càng gặp nhiều khó khăn và sự hiểm nguy, đôi khi phải bỏ mạng.

Sau khi phát hiện ra vùng đất bí ẩn với những hố sâu trên đảo, chàng trai Daniel McGinnis với trí tò mò của mình đã rủ hai người bạn cùng thám hiểm địa danh này. Cả ba người đều háo hức khám phá kho tàng hải tặc nhưng họ không biết rằng đã vô tình khơi dậy một câu chuyện không có hồi kết…


Daniel bắt đầu tự tay mình đào sâu xuống hố đất này và khá bất ngờ khi cứ 3m anh lại đụng phải những tấm ván gỗ. Ban đầu, cả ba vui mừng tưởng rằng đó chính là chiếc rương kho báu, nhưng rồi họ nhanh chóng nhận ra đó chỉ là một thanh gỗ được gắn vào hai bên thành giếng. Sau khi kéo thanh gỗ lên, họ nhìn thấy cái giếng vẫn còn sâu nên tiếp tục công việc, cuối cùng họ đã đào đến độ sâu hơn 7,5m nhưng vẫn chưa thấy gì.

Cuối cùng, ba chàng thanh niên đành bỏ cuộc, lấp cái giếng lại và bỏ đi mặc dù không thôi nghĩ rằng, chẳng ai lại đào cái giếng sâu như vậy mà không cất giấu một thứ gì quý giá dưới đó.


Kể từ đầu thế kỷ XIX, nhiều công ty được thành lập để thực hiện công việc đào bới, kiếm tìm kho báu trên đảo. Với việc tìm ra ngày càng nhiều bằng chứng về “kho báu” chôn giấu dưới lòng đất, hàng loạt những giả thuyết khác nhau được đặt ra.



Một số tin rằng bọn cướp biển từ xa xưa đã chọn nơi này để chôn giấu của cải cướp được, số khác lại nói, hố sâu này cất giữ số trang sức bị mất sau cuộc cách mạng Pháp của nữ hoàng Marie Antoinette nổi tiếng.

Một giả thuyết khác thậm chí còn khẳng định, cha đẻ của chủ nghĩa duy vật Anh – Francis Bacon đã xây dựng nơi này và lưu trữ tại đây những tài liệu chứng minh rằng ông là tác giả của những vở kịch của Shakespeare.


Rất nhiều những giả thuyết lớn khác về bí ẩn dưới lòng đất này được đưa ra, một trong số đó là chiếc hòm giao ước – Ark of the Covenant nổi tiếng cũng được cất giữ tại đây.

Mặc dù hàng loạt lý thuyết cùng sự tiên đoán được đưa ra nhưng những người thám hiểm không tài nào chứng thực được chúng bởi chưa ai thành công trong việc đi đến đáy của cái hố này cả.

Rất nhiều giả thuyết về vùng đất bí ẩn này được đưa ra.

Khó khăn mà tất cả dù cá nhân hay tổ chức đều gặp phải đó là cấu trúc đất dễ lún, lở của hang. Lại nhắc lại cuộc tìm kiếm của Daniel và những người bạn của mình, sau một ngày đêm đào và chỉ những tấm gỗ, họ đã đi ngủ. Trở lại vào ngày hôm sau, ba chàng trai nhận thấy cái hố đã bị ngập nước và sụt lún.

Sau đó, nhiều công ty và tổ chức đến đây tìm kiếm cũng gặp phải vấn đề tương tự khi việc cố gắng tiến vào sâu hơn bên trong hố chỉ là một cuộc hành trình tốn kém và vô cùng nguy hiểm.


Các hầm ngập lụt của “hố tiền” này dường như được kết nối với một mạng lưới lớn hơn nhiều chạy ngầm dưới lòng đất. Mỗi khi người ta cố gắng đến gần, nó lại tự ngập bởi nước biển một cách kì lạ đến nỗi nhiều người tin rằng, nơi đây đã bị nguyền rủa.

Tuy vậy, những phần khác của hang động được tìm thấy cũng mang trên mình nhiều hiểm nguy không kém. Một hang động được tìm thấy trong cuộc khai quật được cho là một bẫy mìn. Một đường hầm khác được phát hiện là lối dẫn nước ngập bí mật của hệ thống hang này.


Vậy tại sao hố sâu bí ẩn này vẫn thu hút hàng trăm nhà thám hiểm đến tìm kiếm? Trong một lần khoan thăm dò trong đường hầm ngập lụt năm 1849, một công ty đã tìm ra giữa đống đất sét và gỗ những mẩu vàng. Hơn thế nữa, một trong những khám phá lớn nhất tại hang này là tập hợp những chữ khắc trên đá nằm khoảng 27m dưới lòng đất.

Những kí hiệu này được dịch ra rằng “Tiếp tục đào 12m phía dưới, bạn sẽ thấy 2 triệu bảng Anh” (khoảng 35 tỷ VND theo tỷ giá hiện tại). Chỉ với một vài bằng chứng đấy cũng đủ thôi thúc nhiều thế hệ người đến đây đào bới với mong muốn tìm thấy cả một gia tài.



Sau vô số nỗ lực, bí ẩn của hố sâu đảo Oak vẫn tồn tại đến ngày nay. Theo nhiều cách khác nhau, các cuộc thám hiểm đã trở thành một phần lịch sử của đảo Oak. Với sự thất bại của những tổ chức cố gắng truy lùng báu vật, vào năm 2010 chính phủ đã cho thông qua đạo luật đảo Oak- cấm tất cả những hoạt động truy tìm kho báu trên đảo từ nay về sau.

Cho dù đó chỉ là một hố đất tự nhiên, hang với đầy đá quý chôn giấu hay là trò lừa điên rồ nhất thế giới thì nơi này sẽ mãi mãi mang trên mình bí ẩn lớn.

Chủ Nhật, 18 tháng 5, 2014

Những kỳ quan bí ẩn nhất hành tinh

Mắt thần giữa sa mạc Châu Phi, hồ băng xương người ở Himalaya, những hòn đá biết đi ở Thung lũng Chết, Cánh cửa địa ngục với khí độc bốc cháy… là những kì quan huyền bí trên thế giới.


Hố sâu xuất hiện ở Mauritania, gần sa mạc Sahara, Châu Phi với màu xanh như mắt thần khổng lồ.


Mỗi khi tuyết tan trên Roopkund, dãy Himalaya ở độ cao 5029 mét, hồ băng ở đây sẽ để lộ ra hàng trăm mảnh xương người, trong đó có cả những mảnh xương có niên đại từ năm 850.


Trụ sắt cao 7 mét, nặng 6,5 tấn tại Delhi, Ấn Độ sau hàng ngàn nawmg gió mưa vẫn không hề có bất kỳ dấu vết ăn mòn hay hoen gỉ nào khiến cả thế giới phải ngạc nhiên.


Năm 1930, những hòn đá kỳ lạ này trạm khắc tròn như quả bóng được tìm thấy ở Costa Rica, ước tính chúng có niên đại khoảng thế kỷ 2 trước Công nguyên.


Không có sự tác động của con người hay động vật, những hòn đá ở Thung lũng Chết, California, Mỹ vẫn tự trôi đi tạo thành những vết dài, thậm chí tới gần 200 mét.


Còn đây là những hình vẽ bí ẩn trong sa mạc Nazca miền nam Peru, kéo dài nhiều cây số, với hơn 300 hình khắc.


Vách núi Maharashtra Dayak với 30 hang động được xây dựng từ thế kỷ thứ 2-7 trước Công nguyên. Trong hang có rất nhiều tranh cổ và một số bức bích họa được xem là ảnh hưởng của nghệ thuật Phật giáo.


Lâu đài thiên nhiên với hình lớp bậc thang ở Tây Nam Thổ Nhĩ Kỳ với 17 suối nước nóng có nhiệt độ từ 35-100 độ C vây quanh.


Rừng đá (thạch lâm) rộng 400 km vuông là một kỳ quan nổi tiếng của tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Người địa phương ở đây truyền tai nhau rằng đi thăm quan Vân Nam chưa đến Thạch Lâm thì chưa phải tới Vân Nam.


Cách đây 42 năm trước, các nhà địa chất đã phát hiện một hang động khí ngầm khổng lồ ở Turkmenistan và có rất nhiều khí độc. Nó có một lỗ rộng 160 mét, sâu 19,8 mét. Đặc biệt khí trong hố này vẫn cháy suốt hơn 40 qua. Nó còn được mệnh danh là “Cánh cửa địa ngục”.


Hơn 1.000 bức tượng khổng lồ bí ẩn trên đảo Easter Island được trạm khắc với hình đầu dài, hốc mắt sâu và mũi cao. Trong đó có 600 tượng cao từ 6-23 mét, nặng khoảng 30-90 tấn.